Hôm nay,  

Món nợ... cái “Band-Aid”

06/04/202211:18:00(Xem: 3876)

Truyện ngắn

daihocHue

 

– Mau đi cô nàng, hôm nay có giờ của Thầy Hùng, nhớ không nhỏ? Mi mần chi mà cà rề từ nãy giờ?

 

– Dạ vâng, em đây ạ.

 

Tôi chạy ra hành lang cư xá, nơi cô bạn hiền đang đứng chờ, chắc hơn mười phút rồi. Ngày nào cũng vậy, không hiểu sao mình chậm ghê luôn. Mình đâu có trang điểm gì – nét đẹp hiện hữu trong sự đơn giản mà! Có lẽ vì cứ lấy áo này ra, nhìn trời, rồi lại chọn áo khác. Lúc xưa phải chạy theo cái đồng hồ để lãnh được bằng Tú Tài, nên đôi khi cái áo không thẳng nếp cũng cứ xỏ vô đại. Bi chừ thì mình phải "chải chuốt"một tí chứ!

 

Cư xá Jeanne d'Arc của các soeurs ở Huế không xa khu Đại học với nhiều phân khoa: Khoa Học, Văn Khoa, Sư Phạm, và ở lớp học bên Văn Khoa, trên lầu – ngày xưa là khách sạn Morin – có thể nhìn ra cầu Trường Tiền mộng mơ của đất Thần kinh, nên không ít cô cậu giành chiếm chỗ ngồi bên cạnh cửa sổ.

 

Trường Khoa Học. Hôm nay là giờ cuối của môn Hóa Vô Cơ là môn tôi không mê tí nào, vì nó quá phức tạp đi thôi! Nhưng thầy Hùng rất giỏi, mỗi năm thầy bay ra vô Huế-Saigon, thầy tốt nghiệp Đaị Học Dược Khoa bên Pháp với bằng Tiến Sĩ, nên các trường Đại Học Saigon và Huế đều mời thầy giảng dạy. Cộng thêm với những môn khó nuốt của thầy, thầy lại rất nghiêm khắc, không dễ tí nào, nên sinh viên thường gọi thầy là "Ông Kẹ". Kính thầy, con xin lỗi thầy.

 

Rồi Thanh và tôi cũng đến giảng đường, và kịp giờ các bạn đang lục đục vô lóp. Giờ học hôm nay tôi lại rất thích thú, có lẽ tôi áp dụng câu "Muốn là được", mình cố gắng thích môn học này vì nó rất quan trọng! Hay là vì tối nay có cuộc họp vui với mọi người bên cư xá bạn? Có lẽ cả hai. Giờ học cuối; sau vài ngày nghỉ lễ sẽ phải làm bài thi, mà không qua được môn này thì không được tí nào cả! Ba Me… Phải chăm chú thôi, Ti Lì ơi!

 

Chiều cuối ngày. Cả bọn trong cư xá lao nhao, mặc áo gì, quà cáp để trao đổi đã xong chưa? Trong phòng ba đứa như ba chị em một nhà.

 

– Nhóc, mi mặc áo khoác ni thì hợp với áo màu đỏ gụ bordeaux nè.

 

– Mi đeo xâu chuỗi này nhé? Hợp với làn da trắng của mi nè.

 

– Còn mụ da nâu thì sao? – Tôi phụng phịu giận dỗi vì chúng nó cứ lo cho nhau, bọn hắn da dẻ thật sáng, mặc màu nào cũng hợp, còn tôi?

 

Nhưng rồi, cũng xong.

 

Nguyên một đám sáu đứa trong số 43 của cư xá đồng ý đáp lời mời của cư xá nam láng giềng để dự buổi tiệc cuối năm Dương lịch bên giang sơn của họ. Chúng tôi là những người gần cuối bước vào căn phòng thư viện đã được dọn dẹp bài trí rất gọn gàng dễ thương. Bài diễn văn của anh Chủ tịch, rồi đại diện các cư xá, bài nào cũng thật hay, nhắc nhở bổn phận của mọi người ở xa gia đình nhưng cố chú tâm học hành để khỏi phụ lòng song thân và thầy cô trong kỳ thi cuối khóa, nhất là các anh chị sắp ra trường; và lời chúc may mắn. Ca hát, vui đùa thỏa thích.

 

Đến giờ ra về, thấy anh Trọng học Y3 (Y Khoa năm thứ 3) dẫn chiếc xe gắn máy nhỏ Caddy mà tôi rất thích, tôi liền hỏi mượn để chạy thử. Vừa đi được một đoạn, loay hoay thế nào, tôi lại té ngã ngay bùng bình trước cư xá. May mà lúc đó cũng hơi khuya, nên đường vắng. Trầy một chút ở cườm tay và đầu gối. Tôi được các soeurs chăm sóc vết thương cẩn thận.

 

Chiều hôm sau, vài đứa rủ nhau đi chợ để mua quà tặng các soeurs trông coi chúng tôi, vừa về đến phòng, tôi được thông báo là có người đang chờ ở phòng khách. Lại chạy xuống. Đó là người chủ của chiếc xe Caddy, anh đưa tôi một gói bông băng và nói:

 

– Chúc Lang nhớ chăm sóc các vết thương, nhất là vết ở đầu gối bị trầy nhiều, kẻo bị làm độc nhé! Anh Trọng xin lỗi Lang vì cái xe làm Lang đau.

 

– Đâu phải tại cái xe đâu, mà tại vì Lang giỏi quá mà! Ủa mà sao kỳ vậy, lúc nãy anh có nhờ sơ (soeur) trao lại cho Lang một gói rồi mà!

 

– Không phải của anh đâu, bây giờ anh mới đến, hôm nay bọn anh phải đi thực tập ở nhà thương mới vừa về.

 

Tôi trả lời qua loa mấy câu hỏi của anh về vết thương, về việc học. Anh dặn nhớ học kỹ hai môn Hóa Hữu Cơ và Vô Cơ nhe. (Lại còn biết tôi không thích hai môn này nữa ta! Sao hay vậy!) Anh về. Tôi lên phòng. Và mở gói kia ra: cũng những lời dặn như anh Trọng, nhưng bên dưới ký tên: Tôn Thất Khôi. Ah! Tôi nhớ ra rồi. Anh Khôi và anh Trọng học cùng lớp, tối hôm qua hai anh đại diện cho một cư xá đến chung vui đây mà. Hôm qua là lần đầu tôi gặp các anh, sao các anh lại biết cư xá của mình vậy ta?

 

Sau ba ngày nghỉ lễ cuối năm, hôm nay trở lại những ngày học bình thường. Chúng tôi học xong hai giờ đầu, giờ Toán của thầy Nhơn. Đến giờ thứ ba là giờ Anh văn, hôm nay thầy Ấm phải đi công tác đột xuất nên được nghỉ; vì còn tiết thứ 4 nên không về được, Kim Thanh và tôi bèn rủ nhau qua Hội quán Sinh viên ở bên kia đường để xem thử, từ hồi đầu năm đến giờ chưa dám ghé vô, vì nghe nói trong đó có rất nhiều nam sinh viên nên ngại. Thật vậy, quán có vài bàn có vẽ sẵn bàn cờ tướng, nên các anh thường thích vô đây để tỉ thí. Nhưng cũng có hai bàn có nữ sinh viên đang ngồi chuyện trò. Có lẽ các cô từ trường Văn Khoa hay Sư Phạm cũng ngay sát trường Khoa Học đây thôi, họ ghé uống cà phê. Hai đứa tôi vừa uống nước vừa nói chuyện thật thư giãn, làm như ở cư xá không thể tâm sự. Mà thật ra khi về phòng thì đứa nào cũng chúi mũi vào việc học.

Kim Thanh bỗng nhìn vào tay tôi và nói:

 

– Sao sáng ni mi băng tay không kỹ chi hết, thuốc thấm ra kìa! Tôi đưa tay lên, và thật vậy, cái Band-Aid đã bị nhuốm thuốc đỏ (vết thương này nhẹ nên tôi xem thường, chỉ chú trọng đến vết thương ở đầu gối bị trầy sâu hơn).

 

Ngay lúc đó, có một anh từ bàn bên cạnh bước qua và đưa cho tôi một cái Band-Aid. Đó là anh Minh, bạn của anh của Kim Thanh. Tôi nói:

 

– Dạ Lang cám ơn anh, nhưng mà sao anh có sẵn băng hay vậy?

 

– Vì anh nghe nói có một cô bé hay bị ngã hoặc trầy xước tay nên thủ sẵn trong bóp!

 

Anh Minh học Y Khoa, và sắp ra trường. Tôi chỉ gặp anh một lần ở nhà Kim Thanh, khi vào Đà Nẵng thăm gia đình bác tôi, vài tháng trước đây. Chúng tôi phải trở về trường, để học giờ Lý. Khi về cư xá, Kim Thanh nói tôi là anh Minh sau khi gặp tôi ở nhà bạn, thường hay hỏi thăm về tôi. “Thanh ơi, tính tình Chúc Lang như thế nào? Ngoan không?” “Khỏi phải nói anh ạ, hắn ngoan lắm, chỉ có tội nghịch phá thôi!”

 

– Ha ha! Vàng thiệt sợ chi lửa cô nàng ơi? Nè, mà ta hỏi mi nè, nhìn mắt ta xem, sao "họ" cứ bảo mắt ta buồn hả?  

 

– Chứ còn chi nữa! "Người em sầu mộng muôn đời" mà! [2] Với lại, mi còn có cái răng khểnh nữa kia!

 

– Ah! Cái con ni! Thiệt không đó? Nè, muốn ta bao cái chi thì nói nhe, đừng cho ta lên mây, té đau lắm! Ở cư xá ni và cả Viện Đại Học, bao nhiêu người đẹp nổi tiếng, mình chỉ là con số zero mi à.

 

– Cái con khỉ! nhưng mà có lẽ họ thích cái tính chân thật không điệu đà của mi đó nhỏ à.

 

– Vậy sao? Cám ơn nhe!

 

Rồi Thanh còn nói anh Minh hỏi có nhiều người theo Chúc Lang không, Thanh nói thì cũng có thấy họ gởi thơ, họ nói chuyện với cô nàng, nhưng làm sao biết được con tim của hắn.

 

Sao mà khổ ghê! Hai người Sơn Tinh & Thủy Tinh đem băng bông quà cáp cho tôi thì tôi cho là bình thường. Hoặc ai đó cùng lớp làm thơ ướt át rồi tặng mà sao mình không nhớ chi hết. Tại sao cái Band-Aid nhỏ bé kia cứ làm mình suy nghĩ vẫn vơ.

 

Đến ngày Tất niên. Tết Nguyên Đán. Các trường Đại Học đều tổ chức Đêm Luật Khoa, Đêm Sư Phạm… Vài bạn học và bạn cư xá đi với tôi để dự Đêm Luật Khoa vì giờ tổ chức sớm hơn, rất phù hợp với bọn tôi vốn rất sợ ma. Đây là buổi trình diễn văn nghệ rất đa dạng do các sinh viên trình bày. Các anh chị, bạn, các em thật là đa tài! Có đủ tân cổ giao duyên, kịch là những màn rất tốn thì giờ để diễn tập, so với đơn ca hoặc hợp ca.

 

Đến sẩm tối, cũng còn một, hai màn nữa, nhưng chúng tôi phải về. Cả bọn sáu đứa chúng tôi ở hai phòng gần nhau nên rất thân nhau, thường tụ tập ở một phòng sau giờ học bài để nấu mì gói, dùng cái resistance điện để nấu nước sôi, lén các soeurs vì tất nhiên là món này bị cấm.

 

Vừa ra khỏi giảng đường của trường được dùng làm "rạp hát", thì anh Minh đến, xin phép để tiễn chúng tôi một đoạn. Chúng tôi đi qua Cầu Mới, là cầu mới xây, sau năm 1968 khi cầu Trường Tiền bị người "tốt" giật sập mất một nhịp, khiến người Huế rất phẫn nộ đau buồn. Các bạn biết ý nên để anh và tôi đi phía sau. Tối hôm đó trời thật trong, ánh trăng lưỡi liềm chiều xuống mặt sông Hương đang gợn sóng li ti thật đẹp và thơ mộng. Anh kể chuyện vu vơ, chuyện học, chuyện ở quê Đà Nẵng của anh, tả những cảnh vật thật nên thơ bình dị.

Đến lúc sắp chia tay, anh nói:

– Chúc Lang cho anh viết thư cho bé nhe.

 

Tôi không biết phải trả lời như thế nào. Từ đó đến cuối năm học, tôi thường nhận được thư của anh, lời thơ thật dễ thương hiền hòa như con người của anh. Rồi mùa hoa phượng đến, hoa nhuộm đỏ thắm đoạn đường trước trường Văn Khoa, nhất là cây phượng ở góc nhìn ra cầu Trường Tiền.Thật là nên thơ, bảo sao thật nhiều vần thơ cho cây phượng này được những tâm hồn lãng mạn luôn trân quý, và thấy lòng mình lâng lâng khi đứng ngắm chúng trong buổi chiều tà.

 

Anh ra trường, đậu rất cao, tên anh đứng đầu bảng kết quả, nhưng không muốn về gần gia đình mà nhận nhiệm sở thật xa, vì anh nói muốn khám phá miền Nam.

 

Tôi về Cao nguyên của tôi. Rồi loạn lạc, bặt tin nhau. Nhiều năm trôi qua, mỗi khi bị trầy hoặc đứt tay, dùng Band-Aid, tôi cũng không còn nhớ đến cái Band-Aid năm xưa, vì bị lôi cuốn vào cuộc sống thời đắng cay tủi nhục đau khổ trăm bề.

 

Nhưng có một năm, khi về thăm lại thành phố thân yêu ấy, thăm trường xưa, cảnh cũ, đến cư xá "của chúng tôi" – bây giờ là một trường cấp hai – tôi lại chạnh lòng nhớ đến thời gian đáng yêu ấy. Ôi, những "người đi qua đời tôi". [3]

 

Đứng trước phòng khách, nhớ đến anh bạn cùng lớp hằng ngày làm chim xanh cho một người cùng phòng đem thư cho tôi, rồi một buổi chiều thật đau lòng, họ đến mà tôi không tiếp, vì tôi muốn hy sinh tình yêu mình cho người khác (để rồi cả hai đều đau khổ!!!) Nhớ đến "Sơn Tinh & Thủy Tinh" đem quà ô mai, búp bê da màu là món tôi rất mê cho đến bây giờ, mặc dù có bao nhiêu là búp bê thật, lớn nhỏ cứ đeo chân mình hàng ngày, rồi có anh tài xế máy bay ngày nào…

 

Những dòng ký ức cứ đua nhau hiện về.

 

Ra khỏi cư xá là ngôi trường mẫu giáo Lê Lợi, mà ngày ấy người viết thư bảo tôi luôn mãi là học trò của trường này thôi. Thật là dễ thương, vì tôi chỉ muốn làm con nít, làm người lớn sao mệt quá!

Đây rồi con đường Trương Định, đi ngang Hội Quán Sinh Viên, và bỗng nhớ đến cái Band-Aid của người xưa.

 

Hỡi "người Band-Aid", anh đang ở đâu? Có nhớ năm nào không?

 

Nhưng rồi, thời của tin học. Một hôm, đang lướt lưới tìm tài liệu cho công việc, tôi chợt thấy hàng chữ "blog của Đại Học Y Khoa Huế". Sự kỳ diệu của thế giới ảo! Tôi gởi thư hỏi thăm vài người bạn Y khoa năm xưa ở cùng cư xá. Khi nhìn thấy địa chỉ điện thư của tôi, anh ấy nhận ra ngay vì tên tôi rất đặc biệt, có lẽ chỉ có một tên như vậy. Qua chừng đó năm, dù có vài mối tình đến với anh, nhưng anh không thể quên cái "Band-Aid" đã đưa cho một người năm nào.

 

– Bé “Band-Aid” ơi, bé có người giữ sẵn băng trong bóp chưa? Bé có nhớ cái Band-Aid ngày nào không?

 

– Chúc Lang bị trầy xước nhiều lần, có khi phải băng nguyên cái băng bự to cơ đấy, nhưng không có ai có sẵn băng trong bóp cả, anh à.

 

– Chúc Lang có nhớ mình gặp nhau lần đi cứu trợ lũ lụt ở quận Phong Điền, Huế không? Sau khi giúp đồng báo ở đó, nhóm sinh viên thiện nguyện đã có một buổi sinh hoạt chung với nhau, ca hát, và khi đứng thành vòng tròn, bé đứng cạnh một nam sinh viên, lúc đó mọi người đang hát bài "Thử Hỏi" của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, anh nhìn Lang khi hát "Tay có bằng lòng cho tay nắm lấy?", và thấy anh ta đang cầm tay bé, anh buồn làm sao!

 

A, tôi mỉm cười khi đọc dòng thư điện tử này. Tôi nhớ ra anh chàng đó rồi, có lần đi trại cùng với liên lớp Pháp ở biển Thuận An, anh ta rất cảm kích khi thấy trên đường về từ kỳ trại, tôi ngồi xuống nhặt cá tươi từ một gánh cá của chị bán hàng bị đổ xuống đất. Hôm sau anh gởi cho tôi hàng chữ: Hình ảnh rất dễ thương mà anh không bao giờ quên, thể hiện lòng nhân ái của Chúc Lang. Time never waits, they often say/ But for Love, who knows, it may. (Thời gian không bao giờ chờ đợi, họ thường nói như thế/ Nhưng biết đâu, đối với Tình Yêu, điều ấy rất có thể).

 

Đâu có thấy thời gian có thể chờ đợi đâu ta?

 

Thư qua tin lại, anh đang sống ở một đất nước rất xa. Nhưng, cho dù sông có sâu, núi có cao, biển có bao la mấy đi nữa, thì cũng không thể chia cách chúng tôi được nữa. Đến kỳ họp mặt các cựu sinh viên nhân kỷ niệm 60 năm của Viện Đại Học Huế, được gặp lại các Thầy Cô kính yêu để dâng lên các vị những lời tri ân sâu xa, và gặp lại bao nhiêu anh chị em bạn bè ngày xưa thân ái, giờ đây ai cũng con đàn cháu đống. Mừng nhất là gặp được 4 người trong số 6 đứa thân thiết ở cư xá năm nào, lâu nay chúng tôi cũng có liên lạc nhau, cũng nhờ thời điện toán mà tìm ra nhau.

 

Mọi người đều rất vui mừng khi thấy anh Minh và tôi bây giờ được ở bên nhau.

 

Tôi nói với các bạn:

 

– Món nợ Band-Aid bây giờ đã trả được rồi nè các bạn ơi!

 

Nhưng tôi lại nói thêm: Phải chi hôm ấy đừng... đau/ Phải chi hôm ấy đừng trao... cho người. [4]

 

Một miếng băng dán nhỏ xíu mà dán được cả hai cuộc đời lại với nhau, mầu nhiệm thay!

 

Tháinữlan

(60 năm Viện Đại Học Huế)

 

[1] Tựa đề bài viết dựa theo tựa của truyện thật dễ thương "Món nợ dĩa bột chiên" của một huynh đệ Hướng Đạo của tác giả.

[2] Người Em Sầu Mộng (thơ Lưu Trọng Lư, nhạc Y Vân).

[3] Người Đi Qua Đời Tôi (thơ Trần Dạ Từ, nhạc Phạm Đình Chương).

[4] Mưa Bong Bóng (thơ Lý Quang Diệu: Phải chi hôm ấy đừng mưa/ Phải chi hôm ấy đừng đưa em về).

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.