Hôm nay,  

Hạ tuần Tháng Tư

26/04/202223:03:00(Xem: 3590)

Hồi ức Tháng Tư Đen


blank


Lại đến ngày 30 tháng tư. Ngày này chẳng khác nào một cây đinh ghim vào đầu của những người Việt Nam. Phải nói rõ là những người Việt Nam nạn nhân của bên chiến thắng. Tôi cũng bị cây đinh ấy ghim vào đầu đúng 47 năm rồi và cứ mỗi lần ngày này đến là trong đầu lại nổi lên cơn đau làm nhức nhối vô cùng. Viết về cây đinh làm nhức nhối này đã phải tốn triệu triệu trang giấy. Với tôi, vào ngày này, nhiều lần cũng đã thử viết về nó nhưng rồi chẳng viết được điều gì vì mỗi khi ngồi vào bàn để gõ lên bàn phím thì đầu óc lại hoang mang xáo trộn với không biết bao nhiêu hình ảnh xưa quay cuồng hiện về trong khoảng thời gian có những cuộc di tản khởi đầu từ cao nguyên và sau đó là miền Trung. Lúc đó tôi đang làm việc tại Sài Gòn và chứng kiến một số diễn biến xảy ra trong một phạm vi hạn hẹp mà tôi chứng kiến trong những ngày cuối cùng của Sài Gòn trước khi lọt vào tay những người tự cho mình là “kẻ đi giải phóng”. Tôi viết đôi điều về công việc của tôi vào những ngày cuối của tháng tư của 47 năm về trước.

Tin tức chiến cuộc dồn dập từng giờ tràn trên các mặt báo phát hành tại thủ đô khiến cho dân chúng càng hoang mang. Những tin hành lan truyền miệng tung ra khắp nơi lại càng làm cho sinh hoạt của người dân thủ đô thêm hoảng loạn. Thêm vào đó, đài BBC và ngay cả đài VOA đã đưa tin có lợi cho việt cộng, về sau họ bị tố cáo là dẫn đường cho cộng sản tràn vào miền Nam, điều này theo tôi có lẽ không sai sự thật là mấy. Những ai sống ở Sài Gòn vào những ngày này đều chứng kiến cảnh sinh hoạt hỗn loạn diễn ra khắp nơi. Trong thời gian này tôi có cơ hội tham dự vào công cuộc cứu trợ cho đồng bào chạy loạn từ Cao nguyên và miền Trung đổ về các tỉnh lân cận thủ đô Sài Gòn, tôi tiếp tay cho một cơ quan từ thiện chuyên giúp người tỵ nạn Việt Nam. Cơ quan này có tên là The World Alliance Of YMCA Services In Việt Nam, trụ sở tại số 89 đường Tự Đức, Đa Kao quận nhất. Trụ sở chính của cơ quan này đóng ở Genève, Thụy sĩ. Tôi được văn phòng Quốc hội VNCH cấp giấy phép di chuyển trong giờ giới nghiêm tại thủ đô nên tôi có thể đi đây đi đó một cách dễ dàng và khi đến các địa phương cũng được các chính quyền dành cho mọi sự dễ dãi. Các điểm tập trung đồng bào tỵ nạn cộng sản do chính quyền địa phương thành lập để tiếp nhận đồng bào các nơi chạy về có nơi tạm trú. Chính quyền lo cho họ có thức ăn hàng ngày cũng như chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ cần thiết khác. Trong những tình huống khẩn cấp như vậy thì YMCA tập trung vào việc cứu trợ khẩn cấp là thiết yếu. Đã có một trung tâm của YMCA thành lập tại Rừng Lá (căn cứ 4) thuộc tỉnh Long Khánh vào mùa hè năm 1972 để tiếp nhận đồng bào tỵ nạn cộng sản chạy về từ An Lộc, tỉnh Bình Long khi nơi này lọt vào tay địch tháng tư 1972. Một trung tâm YMCA khác đặt tại xã Bình Hòa gần Thủ Dầu Một thuộc tỉnh Bình Dương nhằm giúp đỡ đồng bào nghèo tại địa phương qua các chương trình giúp vốn để phát triển về ngành trồng trọt và chăn nuôi. Hai trung tâm này thường xuyên nhận được những ngân khoản cố định để điều hành và sinh hoạt.   

Ba địa điểm trại tỵ nạn mà tổ chức YMCA đến cứu trợ khẩn cấp là trại Phú Văn thuộc tỉnh Bình Dương, trại Long Điền thuộc tỉnh Phước Tuy (Bà Rịa) và thị xã Vũng Tàu. Đồng bào từ các tỉnh Bình Long, Phước Long chạy về trại Phú Văn, đồng bào cao nguyên và miền Trung chạy về Long Điền nếu tàu thuyền của họ tấp vào Long Hải, riêng Vũng Tàu tiếp nhận đồng bào theo các tàu di tản của quân đội. 

Vào ngày 20 tháng tư, chúng tôi thuê một chiếc xe tải để chở 30 bao gạo, mỗi bao 100 ký đến trại tỵ nạn Phú Văn. Tôi là trưởng nhóm cùng với ba nhân viên YMCA lái chiếc Volkswagen (loại xe van) khởi hành 7 giờ sáng và phải mất hai tiếng đồng hồ mới đến nơi. Công việc của chúng tôi được thuận lợi khi các viên chức thuộc ty xã hội Bình Dương tiếp đón và cho chúng tôi biết tình hình của đồng bào tỵ nạn và công việc điều hành trại tỵ nạn. Họ đề nghị chúng tôi giao số gạo cho họ để họ phân phối cho đồng bào trong những ngày sắp tới. Tôi báo cho văn phòng YMCA biết về tình hình tại Phú Văn và ông Masaichi Yamashita là giám đốc điều hành YMCA tại Việt Nam đồng ý chuyển số gạo cho quản lý hành trại. Sau khi ký vào biên bản bàn giao, ông Long là trại trưởng hướng dẫn bốn anh em chúng tôi đi một vòng để thăm và quan sát một số sinh hoạt trong trại. Những chiếc lều nhà binh lớn được dựng lên xen lẫn với những căn nhà dã chiến được làm bằng cây và ván nhẹ, mái lợp bằng tôle. Ngoài nơi làm việc của nhân viên xã hội như một văn phòng, chúng tôi được hướng dẫn đi thăm trạm y tế, thăm lớp học cho trẻ em, thấy hai chiếc xe nhà binh chở nước đang đổ vào những thùng phuy đặt dọc theo các dãy lều trại. Dân tỵ nạn đi lãnh gạo và thức ăn, người khác đến phòng y tế để được khám bệnh và lãnh thuốc, một số thanh niên đang tụ tập ca hát, các em thiếu nhi đang đá banh ở một góc của sân trại. Chúng tôi rời trại để trở về hoạch định cho những chuyến công tác cứu trợ khác. Khi xe chúng tôi lăn bánh thì thấy từ bên ngoài có hai chiếc xe nhà binh chở nhiều người mặc thường phục cả nam lẫn nữ. Tôi nhìn vào đoàn xe thì thấy có hai ca sĩ đang ngồi bên trong nhìn ra. Đó là hai ca sĩ Họa Mi và Sơn Ca. Họ đến hát cho đồng bào tỵ nạn nghe. Chúng tôi không có cơ hội trở lại trại tỵ nạn Phú Văn lần thứ hai.

blank


Ngày 22 tháng tư tôi cùng một số nhân viên YMCA đến trại tỵ nạn tại Long Điền. Tuy gọi là trại nhưng cơ sở này là một trường học gồm hai dãy lớp. Vì tình trạng an ninh bất ổn nên trường đã đóng cửa và chính quyền xử dụng nơi này đề làm nơi tiếp nhận đồng bào di tản từ miền trung vào bằng đường biển và ghe thuyền của họ tấp vào các bãi dọc theo bờ biển Long Hải. YMCA đã gửi sáu nhân viên xuống công tác tại đây từ đầu tháng tư. Họ ở lại đây trong suốt thời gian cứu trợ. Gạo dùng để cứu trợ được mua từ chợ Bà Rịa và được nhân viên YMCA và một số thiện nguyện viên địa phương nấu thành cơm để phân phát cho đồng bào cùng với thức ăn mỗi ngày. Những người ở trại này theo chính quyền địa phương cho biết đa số  họ chỉ tạm trú trong vòng một hai hôm, sau đó họ sẽ  tự tìm đường đi đến các nơi có thân nhân ở Sài Gòn hoặc các vùng lân cận. Nhóm chúng tôi xuống Long Điền có mang theo một thùng thuốc bổ và hai thùng sữa bột (creamer) để phát thêm cho đồng bào. Chính quyền địa phương đã cử năm lính địa phương quân đến để bảo vệ cho đồng bào và các nhân viên thiện nguyện cả ngày lẫn đêm. Đến giờ ăn cơm trưa, năm nhân viên YMCA hướng dẫn đồng bào xếp hàng theo thứ tự danh sách có sẵn nên không có cảnh chen lấn hay giành giật. Thực sự thành phần ở trại này đều thuộc thành phần khá giả từ miền Trung vào, họ mua hoặc thuê thuyền để di tản bằng đường biển, có nhiều người mang theo cả xe hai bánh, thậm chí tôi còn thấy cả xe hơi khi tôi ra bãi biển Long Hải để chứng kiến các thuyền cập bến trong những ngày trước đó. Có nhiều người khi vừa lên bờ họ không khai báo với chính quyền địa phương mà dùng honda hoặc xe hơi chạy thẳng về hướng Sài Gòn. Cũng cần nhắc là, ngoài đồng bào di tản từ miền Trung vào, còn có một số đồng bào chạy đến từ vùng Bưng Riềng, Đất Đỏ do việt cộng bắt đầu mở mặt trận nhằm tiến vào Bà Rịa. Đất Đỏ là nơi trước đó có một đơn vị lính Úc Đại Lợi trú đóng và đã từng đánh nhau với việt cộng nhiều trận lớn. Khi quân Úc rút đi sau hiệp định Paris thì Đất Đỏ luôn bị việt cộng uy hiếp và quấy nhiễu.

Lúc hai giờ chiều có một buổi họp nhân viên YMCA để kiểm điểm công việc trong những ngày qua cùng thảo luận công việc cho những ngày sắp tới. Theo lời khuyên của các thiện nguyện viên địa phương và lính địa phương quân, chúng tôi phải rời trại để trở về Sai Gòn trước ba giờ chiều. Nếu về trễ chúng tôi có thể bị việt cộng bắn tỉa dọc đường hoặc thậm chí có thể bị chận xe bắt người lùa vô rừng. Hai hôm sau chúng tôi nhận được tin là trại Long Điền giải tán vì những cuộc đụng độ diễn ra gần đó. Các nhân viên YMCA trở về Sài Gòn an toàn.



Theo dự định, chúng tôi sẽ đi Vũng Tàu ngày 24 tháng tư vì YMCA đang có một cơ sở được thiết lập vào đầu tháng tư nhằm giúp đồng bào từ miền Trung vào, đa số những người này đi trên những chiếc tàu chở quân đội di tản. Các tàu này cập bến ở cảng Rạch Dừa hoặc căn cứ hải quân ở Cát Lở. YMCA đã mướn một căn nhà đối diện với Ty Cảnh Sát Vũng Tàu để chứa gạo, nước mắm, muối, sữa bột, sữa đặt và thuốc men với dự định sẽ phân phối cho đồng bào sau khi họ được đưa vào tạm trú tại Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Quốc Gia ở Rạch Dừa. YMCA có một toán nhân viên túc trực tại đây và mỗi ngày họ vào Trung Tâm HLCBQG để nấu cơm phân phối cho đồng bào. Công việc chỉ thực hiện được hai tuần thì bị đình chỉ vì việt cộng đã bắt đầu chỉa mũi tấn công vào Vũng Tàu. Nhân viên YMCA được lệnh phải trở về Sài Gòn.


blank

Trung tâm YMCA tại Rừng lá đã mất liên lạc khi mặt trận Long Khánh trở nên khốc liệt. Vào giữa tháng tư, chúng tôi lái xe đi Rừng Lá nhưng khi đến khu vực xã Bảo Toàn thì bị lính chận lại, lý do là đang đánh nhau với việt cộng. Chúng tôi dừng xe trên quốc lộ I và thấy máy bay đang quần thảo trên bầu trời. Nhiều đám khói đen bốc lên xa xa sau những lũy tre xanh. Chúng tôi đành phải quay xe trở về thủ đô.

Ngày 25 tháng tư, một nhân viên thuộc Trung tâm YMCA tại xã Bình Hòa Lái Thiêu về Sài gòn báo tin là trong đêm qua một số người đã đột nhập vào trung tâm để lấy đi rất nhiều đồ đạt, gạo và thuốc men; đặc biệt hơn nữa là họ đã bắt đi 20 con heo trong chuồng là số heo YMCA nuôi để giúp cho đồng bào làm giống chăn nuôi. Người chạy về báo tin là một người dân địa phương được YMCA mướn để trông coi cơ sở, sau mới biết anh ta là một kẻ nằm vùng và chính anh ta đã tổ chức vào lấy đồ đạt và hốt nguyên chuồng heo như đã nói ở trên.

Thế là công cuộc cứu trợ đồng bào tỵ nạn của YMCA chấm dứt. 

Phần tôi, trong thời gian đi đi về về Sài Gòn – Vũng Tàu, có liên lạc được với một số bạn bè ở Vũng Tàu hùn tiền mua một chiếc ghe tại Bến Đá để vượt biên. Lương thực, nước uống và cả vũ khí đều do các bạn tôi ở Vũng Tàu lo, hẹn ngày tôi cùng gia đình ra Vũng Tàu sẽ leo lên thuyền ra khơi. Trong khi quân trấn Sài Gòn Gia Định ban lệnh giới nghiêm cả ngày lẫn đêm, ngồi nhà ôm radio nghe tin tức chiến sự thấy tình hình quá nguy ngập. Việc ra đi tôi cũng đã dự tính bằng cách ghi danh di tản bằng máy may do tòa đại sứ Mỹ tổ chức nhưng cuối cùng không liên lạc được, lý do là chẳng biết bài hát White Christmas là tín hiệu để tập trung. Còn chuyện ra đi bằng đường biển, như đã nói ở trên là sẽ ra đi từ Vũng Tàu. Gia đình tôi gồn 5 người, hai vợ chồng 3 đứa con nhỏ từ một tới năm tuổi, thêm vào là bốn người em từ Đà Lạt xuống giữa tháng ba. Mỗi người đều có một túi xách nhỏ trong có một hai bộ áo quần, giấy tờ tùy thân, ít thuốc men và một tấm giấy ghi họ tên và địa chỉ để phòng khi mấy đứa con bị lạc cũng có thể có người giúp đưa về nhà. Kể ra tôi là người thuộc loại khờ khạo nếu không muốn nói là ngu vì cứ ngồi nhà theo lệnh giới nghiêm mà không đi ra ngoài để biết tình hình thực tế đang diễn ra ngoài đường phố. Cuối cùng, ngày 27 tháng tư mới lò dò ra đầu con hẻm thì thấy thiên hạ đầy đường, kẻ chạy xuôi người đi ngược vội vã đầy vẻ âu lo, xe nhà binh xe dân sự cũng thấy chạy tứ bề chẳng biết họ chạy đi đâu, có tiếng đạn pháo kích từ hướng Tân Sơn Nhất. Đi thêm ra ngoài đường Lê Văn Duyệt thấy những người mặc đồ lính đổ về hướng trung tâm Sài Gòn, không biết họ từ đâu chạy về. Trở vào nhà tôi quyết định là ngày mai cả nhà sẽ đi Vũng Tàu với hy vọng các bạn tôi vẫn còn chờ, nhưng tôi chẳng có phương tiện gì để liên lạc với họ. Chắc cũng là một chuyến phiêu lưu trong giờ tuyệt vọng.


blank

               

Sáng sớm 28 tháng tư, trên chiếc xe La Dalat nhét chín mạng người  và một ít lương thực, tôi lái thẳng ra xa lộ Biên Hòa, quẹo ngả ba Vũng Tàu theo quốc lộ 15, ngang qua thị trấn Long Thành, ghé chợ Bà Rịa ăn sáng, xong tiếp tục đoạn đường 24 cây số để đến Vũng Tàu với hy vọng cùng bạn bè leo lên thuyền để ra khơi. Khi xe chạy đến gần cầu Cỏ May, còn khoảng hơn cây số, tôi thấy một đoàn xe phía trước, xe hơi đủ loại, xe hai bánh và cả đám người lố nhố già trẻ gái trai đứng chật cả mặt đường, mắt ngóng về phía Vũng Tàu. Tôi đoán là đường bị đắp mô nhưng không phải, xuống xe đi lần đến phía trước thì mới biết cầu Cỏ May đã bị việt cộng giật sập. Một vài chiếc xuồng nhỏ của dân địa phương mời khách xuống xuồng để họ đưa qua bên kia bờ nhưng hình như chẳng có ai đồng tình vì vướng phải xe cộ, đồ đạt và cả những người đi theo. Nhiều người tìm cách quay lại, lúc đầu còn ít, sau số người càng lúc càng đông. Tôi phải mất trên hai tiếng đồng hồ mới quay đầu xe trở về với tâm trạng tuyệt vọng não nề. Về đến trung tâm Sài Gòn thì phố đã lên đèn. Người ta vẫn còn chạy xuôi chạy ngược, hớt hãi, lo âu. Tin đài BBC cho biết quân bắc việt đã vào gần đến Biên Hòa. Nghe radio: ông Dương Văn Minh nhậm chức tổng thống. Hoàn toàn tuyệt vọng! 

Ngày 29 tháng tư, buổi sáng lục lạo một số giấy tờ và hình ảnh để đốt. Buổi trưa nghe tin một chiếc trực thăng rơi trên đường Lý Thái Tổ (về sau vc nói là do chúng bắn rơi, xịt!). Vào khuya lục sách báo mang đi vứt trong các ngõ hẻm vắng vẻ. Các sách về tôn giáo như Công giáo và Tin lành thì chở đem đi liệng ở bên hông hay trước các cổng nhà thờ miệt ngả ba Ông Tạ. Nghe trên radio: ông Dương Văn Minh gửi tối hậu thư buộc người Mỹ rút khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiếng. Hết thuốc!

blank


Sáng 30 tháng tư cả nhà leo lên xe chạy vòng vòng để tránh đạn pháo kích. Trên đường thấy lính cởi bỏ đồ trận, vứt giày súng ra giữa đường, họ chạy từ hướng Bà Quẹo, Ngả Tư Bảy Hiền về. Thỉnh thoảng nghe vài tràng súng nổ cùng tiếng đạn pháo kích. Ở góc Phan Thanh Giản – Phan Tôn có một chiếc M 113 nằm bất động, một số thanh niên leo lên múc xăng cho vào những bình nhựa 20 lít, kế đó vài thanh niên nhặt được súng M16 đâu đó chỉa họng lên trời mà bắn cho đến khi hết đạn. Khi đến đường Lý Trần Quán thấy một thanh niên khoảng 30 tuổi ôm chân ngồi bên đường, biết anh này bị thương vì thấy máu chảy ra từ đùi bên phải, tôi dừng xe và xách túi cứu thương đến bên anh làm công việc “first aid”. Anh ta bị trúng mảnh đạn pháo kích, vết thương chỉ bằng ngón tay cái. Tôi lau vết thương bằng cồn, xong lấy thuốc đỏ bôi vào vết thương và băng bó lại. Đường phố vẫn đông người hớt hãi chạy loạn. Tôi lái xe ngang qua khu Dakao rồi theo đường Nguyễn Bỉnh Khiêm đổ ra hướng xưởng Ba Son chạy tới Bến Bạch Đằng. Thấy hai ba chiếc tàu đang đậu phía quận tư đầy nhóc cả người trên đó, dọc theo đường Bến Bạch Đằng là vô số xe hai bánh dựng la liệt, còn có cả chục chiếc xe hơi bỏ lại bên đường. Người ta đang cố leo lên những chuyến tàu cuối cùng để chạy nhưng không biết nhữn
g con tàu này có rời bến kịp trước khi có lệnh đầu hàng hay không?

Thấy bí đường nên tôi quay về nhà. Theo đường Tự Do chạy về phía nhà thờ Đức Bà thì nghe lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Nhìn về hướng đường Công Lý thì thấy hai cánh cổng dinh Độc Lập đã bị xe tăng việt cộng ủi sập, bên trong thấy lố nhố một bầy nón cối. Tôi quá bàng hoàng và hoảng sợ. Về đến nhà với nỗi lo âu tột cùng, suốt ngày hôm đó, 30 tháng tư hình như tôi không có một hạt cơm trong bụng, tôi như người thất thần, chỉ còn biết làm một việc là lục lạo thêm một mới giấy tờ và hình ảnh đem ra sau nhà bếp để đốt tiếp. 

Tối hôm đó tôi không ngủ, sáng hôm sau vợ tôi nhìn vào đầu tôi và nói: sao tóc anh bạc gần hết vậy?

-- Phong Châu   

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.