Hôm nay,  

Viện Mồ Côi Escoubet

28/04/202220:43:00(Xem: 3091)

Ký – Tháng Tư Đen


Vu Thi Thanh Mai 1979

 (Viết cho Lưu-Linh Vũ)

 

– Sau cướp biển và bão tố, với một thuyền nhân khi đặt chân đến nước thứ ba là một hồi sinh. Nhưng có thật hồi sinh với tâm tư nguyên vẹn? Ra đi và chia cắt là một vết thương vĩnh viễn.


 

Escoubet là tên một biệt thự cổ nằm bơ vơ giữa những cánh đồng thênh thang miền Nam nước Pháp. Chủ nhà mấy trăm năm trước không thể nào ngờ sẽ có ngày nó biến thành viện mồ côi dành cho trẻ tị nạn không có cha mẹ đi theo. Tôi đến giữa mùa hè, ngày vàng rực hoa hướng dương, rạng rỡ những mới lạ của một văn hóa Tây phương chờ tôi khám phá. Nhưng khi đêm phủ trùm, Escoubet trồi lên giữa nền tinh tú, nhìn càng bơ vơ như đã một mình rơi vào vũ trụ. Bơ vơ. Tôi thường nghĩ đến bơ vơ ở mỗi địa điểm chuyển tiếp. Không phải cô đơn vì bốn chị em tôi luôn bên cạnh nhau. Mà như gốc cây trốc rễ bị gió cuốn tha phương mãi hoài không thể nào bám đất. Chuyển tiếp không ngừng. Tương lai càng hiện rõ thì tôi càng thấy bơ vơ. Có khi tôi liên tưởng đến chú bé hoàng tử của Saint-Exupéry, đi quá xa quá mỏi mệt muốn bỏ lại thân xác để hồn bay về nhà.

 

Đêm đầu tiên thấy chúng tôi lên giường với quần jean áo sơ mi, cô Jocelyne quay lại với ba cái áo đầm ngủ mới tinh còn trong bao, tôi cảm động, muốn tin có thể xem đây là nhà. Chỉ có mẹ mua áo mới cho chị em tôi. Từ khi vượt biên, chưa ai nhìn chúng tôi dịu dàng vậy. Tôi viết thư kể với bố mẹ, ba chị em được một căn phòng xinh xắn vừa đủ kê một chiếc giường đơn và một giường hai tầng; khăn phủ giường có vân xanh lơ điểm hoa đỏ tiệp màu giấy dán tường, còn có phòng tắm nhỏ. Em Long ở bên dãy nam. Viện có sáu éducateurs thay phiên chăm sóc đám trẻ hơn ba mươi đứa. Ba bữa ăn có đầu bếp đến nấu nướng dọn dẹp. Mỗi người được phát một trăm quan tiền túi hàng tháng. Mỗi sáu tháng được chở ra tỉnh mua sắm quần áo mới. Tháng chín tựu trường, chị em tôi sẽ được đi học ở trường làng. Nơi đây còn tốt hơn nội trú ở những trường tư, chúng tôi được chăm lo đầy đủ và sẽ cố gắng học hành. Tôi kể một hơi tất cả những chi tiết lạc quan, mong bức thư chuyển tải âm thanh tôi vui mừng. Chắc mẹ sẽ cho rằng chúng tôi đã được tái sanh vào một thế giới tốt đẹp. Chắc bố mẹ sẽ mãn nguyện với viễn tượng tương lai của chúng tôi. Tôi không nhắc đến viện chỉ chứa chấp trẻ em dưới mười tám tuổi, năm sau tôi sẽ phải một mình ra ngoài và chưa biết sẽ đi về đâu.

 

Tháng tám thời tiết đẹp nhất trong năm. Tôi thích ngắm nhìn bầu trời xanh mênh mông trên cảnh bình dị của đồng quê buổi sớm mai, khi tôi đi qua hành lang nối với tòa nhà bên cạnh để xuống phòng ăn, nắng mang hương cỏ cây hắt lên da. Bữa ăn sáng luôn có bánh mì bơ mứt và một tô sữa tươi. Uống sữa bằng tô thì ngộ nghĩnh nhưng tôi không hỏi. Cô đầu bếp Florence mang chiếc nồi to đến nông trại mua sữa tươi về đun sôi rồi múc ra tô. Tôi khoe trong thư, sữa ở đây nguyên chất và béo ngậy, Sài Gòn không có đâu. Ý là trước 75. Sài Gòn sau 75 không có gì cả. Cô Florence bày thức ăn, tô đĩa và dao trên quầy, ai đến trước đem phân phát mỗi bàn. Phòng bày tám bộ bàn ghế gỗ nâu sẫm, thoáng rộng. Tôi luôn chọn bàn thứ nhì, nhìn ra bãi cỏ xanh bên ngoài qua hai cánh cửa kính lớn, nghe chung quanh tiếng chào hỏi khi mọi người lục tục kéo đến, pha lẫn tiếng cười đùa, uống ngụm sữa nóng, thấy ấm áp trong lòng. Ăn xong, mỗi người đem đồ mình dùng đặt lại trên quầy. Chỉ có xứ văn minh mới nuông chìu trẻ mồ côi như vậy. Khi khám phá ra bình cà phê nóng dành riêng cho người lớn, lòng tôi rạng rỡ biết mấy, quyết chí uống cho bằng được. Tôi xin vào bếp phụ rửa bát. Cô Florence dặn mỗi cái tô tráng nước xong thì đặt ngửa trên khăn, sau khi rửa xong hết mới úp xuống. Cũng ngộ. Úp xong đống tô, tôi xin cô một ít cà phê. Từ đó sáng nào tô sữa của tôi cũng pha chút cà phê, dù chỉ đủ làm nâu đi màu sữa, không đủ đậm để dậy mùi thơm, tôi không đòi hỏi hơn. Ngày hôm qua tôi đã mất tất cả. Giờ, tôi được sống trong sự bảo bọc của những tấm lòng bác ái bao la, ở một ngôi nhà đá di sản của thế kỷ XVIII, học và chơi với một đám trẻ cùng lứa, cùng số phận. Tôi cám ơn Thượng Đế đã đưa tôi đến nơi này, nhưng giá mà Ngài cho phép tôi sống tuổi trẻ và chết già nua ở Sài Gòn của chúng tôi.

 

Đám trẻ không hỏi nhau đến từ đâu, tuy chúng tôi nhận ra sự khác biệt giữa những màu da. Hiểu ngầm đoạn đường mỗi người vừa đi qua không gì hấp dẫn đáng tò mò. Cùng một câu chuyện thôi. Giá đã trả, cơ hội làm người ở xứ tự do đã đến tay, và Escoubet là món quà từ Trời cho những bước đầu tập tễnh. Ba chị em tôi thân với chị Nguyệt Sương nhất, chị trên mười tám nhưng khai rút tuổi, ít biểu hiện nhưng thương mến ai thì mở lòng tràn trề như sông nước Rạch Giá. Chúng tôi đã gặp nhau ở foyer Créteil, một địa điểm chuyển tiếp vùng ngoại ô Paris, trước khi được đưa đi xe lửa năm trăm cây số về Escoubet. Chung chuyến xe lửa còn có chị Hiếu, cũng khai rút tuổi, có giọng Bắc của Bùi Chu Phát Diệm khiến tôi nhớ chị Ba ở nhà. Chúng tôi thường trao đổi những kỷ niệm về Đà Lạt, tiệm bán ô mai của gia đình chị và những ngày hè của gia đình tôi. Chị còn dạy ba chị em tôi đan áo len chuẩn bị cho mùa đông. Em Lan học đan chăm chỉ nhất vì nó sợ lạnh. Về đây, em Long chơi thân với cậu bé trạc tuổi tên Hiển khiến tôi rất mừng. Gia đình có năm anh em trai, Long vượt biên với ba chị gái, cô đơn vương vất trong mắt nó. Trong trại tị nạn Mã Lai, người đàn bà ở lều bên cạnh có lần nói với tôi, “Bác thấy Long ngồi một mình nhìn xa xăm buồn đẵm, bác lại nghĩ thương đứa con trai hồi trước đi vượt biên chắc cũng nhớ nhà như vậy”. May giờ có Hiển và các cậu bé khác. Chị của Hiển mang tất cả mộng mơ của thiếu nữ tuổi mười lăm, mắt ướt môi ướt, tự đổi tên là Ánh Sương vì cho rằng cái tên Mai của cha mẹ đặt không thích hợp với mình. Ánh Sương thân với Oanh, hai cô gái Việt đầu tiên ở Escoubet. Hai người đi cạnh nhau, Oanh cao hơn một cái đầu, gương mặt xinh đẹp lập tức lôi cuốn người đối diện với má lún đồng tiền và chiếc răng khểnh. Oanh nũng nịu như đứa con út được gia đình cưng chìu, thường ôm cánh tay ngả đầu vào vai cô Jocelyne hoặc cô Christine; thời gian đầu chưa quen chắc Oanh lạc lõng khủng khiếp. Tôi còn khá thân với Mỹ Tiên. Hai đứa cùng tuổi và được xem là lớn nhất. Mỹ Tiên nhỏ nhẹ hiền lành, giọng người miền Nam sống ở Chợ Lớn gợi cho tôi nhớ mấy cô bạn trường Bác Ái. Ngoài những trẻ đến từ Việt Nam, Mi phải là người Việt lớn lên ở Lào vì cô nói thông thạo hai thứ tiếng. Thêm nữa, Mi và anh chàng Phayvanh người Lào như một cặp thanh mai trúc mã, chắc chắn họ phải là đôi bạn thân từ nhỏ. Ai cũng nhận ra Phayvanh say mê cô bạn của mình. Mi mang sắc đẹp và giọng nói của miền thượng du Tây Bắc, và một thân hình người mẫu. Sự thân thiết này khiến tôi nhớ Vũ. Giá mà Thượng Đế cho phép Vũ ở đây. Tôi cũng nhận ra mình chưa dốc tâm vào tương lai. Tâm trí chờ chực bất cứ chi tiết nào gợi lên quá khứ để nhấn chìm tôi vào nỗi u sầu. Làm sao để đừng nhớ nhưng cũng đừng quên.

 

Chú Denis đưa những người mới đến lớp cô Isabelle để học thêm Pháp văn và khảo sát trình độ của chúng tôi cho việc xếp lớp vào tháng Chín. Con đường nhựa eo hẹp uốn éo, hai bên đường không một bóng người, không nhà cửa; cây cỏ cao lớn mạnh mẽ ngự trị mặt đất, chọc thẳng lên trời. Sự chế ngự của thiên nhiên hoang dã khiến tôi thấy chơi vơi giữa một biển cỏ trùng trùng nhấp nhô. Tôi sợ hãi với ý nghĩ nếu phải ở đây một mình. Cuối cùng xe dừng lại trước một khoảnh sân rộng ngập lá vàng khô, gió xao xác, không khí đậm mùi cũ kỹ tựa đã đọng lại nhiều đời kiếp. Lớp, đơn giản là một ngôi nhà chỉ có bốn vách tường đá chắc đã đứng hơn trăm năm, một bộ bàn ghế và một tấm bảng. Cô Isabelle tóc vàng cột đuôi, ánh mắt sau lớp kính cận dày cộm cười đón chúng tôi. Tôi chưa thấy cô giáo nào chìu học trò như vậy. Ngày học từ sáng đến chiều, cô nói ai chán thì cứ chơi, muốn biết thêm gì thì cô dạy. Nghĩ lại, tất cả mọi người lớn đều nuông chìu chúng tôi. Trưa, chú Denis quay lại với thức ăn nóng hổi luôn cả đĩa và dao nĩa, nhưng khi bày ra thì không thấy phần của cô Isabelle, và cô chỉ gặm một quả táo. Đám học trò nài nỉ mời cô ăn chung. Tôi thấy rõ vẻ ngần ngại cùng sự cố gắng cưỡng lại. Nhưng cuối cùng, cô chịu thua cho mùi hương thơm phức đang lấn áp không khí vào đến tận cùng hơi thở. Cô ngượng ngùng hơn nữa khi một hôm bà giám đốc Escoubet mà chúng tôi gọi là Madame Arnoux ghé bất chợt trong giờ ăn, và bắt gặp. Tôi không hiểu tại sao chú Denis không chuẩn bị cả phần của cô Isabelle để cô tự nhiên hơn. Sau một tuần, cô Isabelle cho biết trình độ Pháp văn của tôi đủ, những người khác cần học thêm vài tháng. Vậy là tôi không cần đến lớp, không bao giờ gặp lại cô nữa. Em Lan xin cô dạy đàn guitare, tôi mới chợt nhớ em mình đang ở tuổi mộng mơ, và nhận ra trong lòng chính mình tất cả mộng mơ đã tan mất. Thỉnh thoảng tôi nghĩ về cô Isabelle, không biết gia đình cô có ruộng vườn, quanh đây không có bao nhiêu công ăn việc làm, mấy tháng hết lớp cô sẽ đi về đâu.

 

Gương mặt tôi chưa gì đã tròn ra, tôi viết trong thư như vậy. Nhìn lại tấm ảnh khổ 4x6 chụp ở đảo thấy xơ xác đen đủi. Thức ăn ngon, có khi được ăn bánh gâteau tráng miệng, à, rất ngộ là sữa uống bằng tô và súp ăn bằng đĩa, tôi hỏi thời Pháp thuộc của bố có vậy không. Tôi khoe thêm sáng nay được đưa ra phố Éauze mua sắm để chuẩn bị nhập học. Và cười, phố chính của Éauze nơi bày chợ trời nhỏ hơn bùng binh Ngã Bảy của mình. Mà Éauze là thủ phủ của tỉnh Armagnac. Vũ có đến nhà tìm con không.

 

Quảng trường của Éauze chừng hai mươi mấy thước vuông, thưa người qua lại cho buổi sáng thứ bảy. Lần đầu được thăm viếng phố cổ hai nghìn năm, tôi dán mắt khắp nơi. Cô Gaillard hướng về quán ăn, chỉ trỏ những chạm trổ còn sót lại trên bức tường đá xây từ khi La Mã xâm chiếm Pháp. Những hàng quán chung quanh đều xây bằng đá và khung gỗ, mộc mạc nhưng vô cùng mỹ thuật. Cô rẽ vào một con đường hẹp, đi thoăn thoắt trên những đoạn vẫn còn lót đá, một lúc đến tiệm tạp hóa. Mỗi chúng tôi được mua một túi ba-lô dưới một trăm quan, thì ra ở Pháp học sinh không dùng cặp táp. Các quầy chất đủ thứ đồ dùng của học sinh lạ mắt. Tôi đi lên đi xuống, mê mẩn xem hàng xem giá, miễn tổng số dưới một trăm quan thì cô Gaillard sẽ cho phép mua. Cuối cùng, tôi chọn một chiếc ba-lô màu xanh ô liu, nhìn hơi bụi đời như bụi bặm trên Éauze mộc mạc, và một hộp đựng viết màu hồng rất xinh xắn. Cô Gaillard tử tế, kiên nhẫn chờ đám trẻ ở quầy trả tiền. Chúng tôi đi ngược ra quảng trường. Lên xe ra về, tôi đem theo chút hoài niệm vương vất trong không khí của phố thị. Đi lại con đường làng năm cây số đưa đến Escoubet, tôi nghĩ lại thân phận của mình hôm mới đến trong cùng chiếc xe. Ký ức của bốn tháng trước đó và sáu lần chuyển tiếp chợt kéo về. Rồi cảm giác chơi vơi ập đến. Làm sao để xem nhẹ quá khứ. Tối đó tôi ôm hộp viết màu hồng đi ngủ, nằm trăn trở nhớ nhà. Hôm mẹ đưa cả nhà đi thương xá Tax, tôi cũng đã dán mắt trên các tủ kính, và cuối cùng chọn một con búp bê tóc vàng với đôi mắt xanh biết chớp. Mẹ nói thưởng tôi thi đậu vào lớp Sáu trường Saint Éxupery. Năm tôi học lớp Nhất, bố đi Nhật mua về cho tôi một con búp bê mặc kimono đỏ biết quay vòng vòng khi vặn nút âm nhạc. Tôi không thể ngừng mơ ước trở về những thời gian đó. Sự tĩnh lặng của ban đêm và bóng tối làm mù mờ hiện tại. Tôi đi vào giấc ngủ với sự nhọc nhằn, lại mơ thấy mình về nhà và căn nhà của mình chìm trong u ám.

 

Tôi đến cổng trường với tất cả bở ngỡ của ngày đầu tiên đi học. Vũ quá xa xôi để có thể cùng đi vào lớp, nên lớp học lạnh lùng xa cách. Thầy hiệu trưởng bất chợt vào cắt ngang cô giáo, nét mặt nhăn nhó, đi thẳng đến bảng cầm phấn lên viết phương trình bậc hai và bảo tôi giải. Loại này tôi đã học hai năm trước nên cho ngay kết quả không cần suy nghĩ. Ông nhún vai, “Lớp Chín là phải rồi!” Vậy là tôi được xếp vào lớp Chín cũng là lớp cao nhất trường làng. Tôi viết nốt bức thư, báo tin cuộc sống mà tôi rời bỏ đang nối tiếp trở lại. Rồi gửi về nhà.

 

Nhưng là một nối tiếp trớ trêu như mình đã đầu thai vào kiếp đời mới, mà vẫn mang theo ký ức của đời trước. Tôi bây giờ là trẻ mồ côi sống trong một cô nhi viện ở miền Nam nước Pháp. Cha mẹ hiện diện trong một căn nhà mà tôi chỉ có thể về trong những giấc mơ. Khi ngoan, tôi cám ơn Thượng Đế; bốc đồng thì muốn trả lại món quà Ngài đã ban. Trả lại rồi về đâu khi nơi mình muốn về chỉ còn là hình ảnh? Tất cả chỉ vì miền Nam đã bị cướp đi sự nhân bản.

 

Phải, chúng tôi đã trả một giá rất đắt cho kiếp đời mới này. Nhưng dần tôi hiểu ra, việc trả giá sẽ không ngưng. Vì quá khứ tôi yêu mến khiến hiện tại dù thế nào cũng không hoàn chỉnh. Tôi mười bảy tuổi, hiểu mình sẽ đem theo quá khứ suốt cuộc đời.

 

Vũ Thị Thanh Mai

(Buena Park, 4/2022)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
TÔI LÀ AI? Dường như mãi mãi là một câu hỏi cho cuộc sống của con người tại thế. Và câu trả lời của nó, hẳn nhiên, không thể và không chỉ là một cụm từ, cho dù có thể sâu xa đến đâu. Phùng Thanh Hà, một phụ nữ tôi quen biết, tuy cùng ở một thành phố nhưng phải đánh một vòng đến Thuỵ Sĩ, qua một người bạn (đạo diễn Síu Phạm), tôi mới gặp được cô ấy. Tôi kể điều này để muốn nói rằng, tương ngộ là tuỳ duyên, không chỉ trong các mối quan hệ mà còn là những vấn đề liên quan, những cơ sự sắc tướng hoặc vô sắc tướng nơi mỗi cá nhân.
Độc giả Việt Báo hẳn đã quen với Bùi Chát – nhà thơ – qua nhiều thi phẩm đặc sắc từng đăng tải trên trang báo này suốt bao năm qua. Tuần rồi, Việt Báo vừa giới thiệu tập thơ mới Chúng Ta Đang Trôi Đi Đâu với bài viết của Nguyễn Đức Tùng. Hôm nay, mời bạn đọc gặp lại một Bùi Chát - người họa sĩ. Anh đang có cuộc triển lãm tranh mang tên “đang trôi” khai mạc từ hôm nay và kéo dài đến hết ngày 24 tháng 7, tại Sài Gòn – một dịp hiếm quý dành cho các độc giả Việt Báo hiện đang có mặt tại Tân Định.
Nay ăn nhờ ở đậu nơi đất nước người, lấy chi mà “những điều trông thấy” kiểu như ngày xưa ấy. Nhưng thấy ý kiến của “bà hàng xóm” là một giải pháp khả dĩ, tôi nghĩ phải làm sao cho ra một bài viết vui vui thích hợp với xã hội đang sống. Trăn trở mãi rồi cũng eureka. Tôi đặt cái khung cho những bài mà tôi gọi là “phiếm”. Thứ nhất, đề tài bám vào những chuyện thời sự, nhất là những chuyện có liên quan nhiều tới cộng đồng người Việt sinh sống rải rác khắp nơi trên thế giới. Thứ hai, phải viết với lối văn vui vui, tếu tếu nhưng vẫn giữ chừng mực. Thứ ba, phải có hơi hướm văn chương bằng cách dùng những giai thoại hoặc/và những chuyện thực nhưng vui khi tiếp xúc với các bạn văn.
“Sự thật bắt đầu bằng tưởng tượng.” Không phải là câu nói cao siêu rỗng, mà phải nghiền ngẫm rất lâu trong hệ lụy thăng trầm mới có thể cảm nhận. Đó là lý do người ta thường đố: sự thật ở đâu? Không ai thấy rõ sự thật nên nó trở thành phương tiện cho tôn giáo, mục đích cho khoa học, triết học, và giấc mơ cho văn chương nghệ thuật. Cũng là một thứ bình phong, mồi nhử, cạm bẫy trong đời sống thường nhật cho những người bình thường dễ tin.
Đêm 7/3/2025, trong khán phòng của Bowers Museum, một tiếng nói đậm chất “đài phát thanh” vang lên, dẫn dắt hàng trăm khán giả bên dưới bước vào đêm nhạc Mừng Sinh Nhật Khánh Ly 80 Tuổi. Một tháng sau, cũng tại Bowers Musem, người MC này bước lên sân khấu dẫn dắt những buổi hội luận về báo chí, văn học tại Hội Chợ Sách “Viet Book Fest” lần thứ 3 do Hội Văn Học và Nghệ Thuật Việt Mỹ (VAALA) tổ chức. Cô cũng là Giám Đốc Điều Hành, người lèo lái con tàu VAALA 34 năm nay.
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam, đại học UC Irvine tổ chức ba sự kiện văn hóa trong ba ngày 7,8,9 tháng 5 năm 2025. Mở đầu là hội thảo “Những Câu Chuyện Từ Việt Nam Tới Hoa Kỳ - 50 Năm Lịch Sử Và Cộng Đồng”; kế đến là buổi hoà nhạc The Odyssey—From Vietnam To America của nghệ sỹ đoạt giải Emmy Vân Ánh Võ; kết thúc là buổi chiếu phim New wave của đạo diễn Elizabeth Ai. Trong ba sự kiện này, buổi hòa nhạc The Odyssey đòi hỏi sự chuẩn bị công phu, kéo dài từ nhiều tháng trước. Trên sân khấu, Vân Ánh đã nhiều lần cảm ơn những tấm lòng hảo tâm đã giúp cô đem được buổi trình diễn đến với Quận Cam, thủ phủ của người Việt tị nạn ở Mỹ.
Một tay cầm micro, tay kia cố gắng lật trang sách để giữ nó cố định, Thái Nguyễn chỉ vào hình ảnh cô tài tử Hollywood gốc Việt đang tiếp nhận những ‘hào quang ánh sáng’ của báo chí điện ảnh Mỹ, trong tà áo dài màu xanh lá cây đậm, giới thiệu về sách thiếu nhi Mai’s áo dài: “Đây là lần đầu tiên áo dài Việt Nam hiện diện trên thảm đỏ Oscar!”
Từ đó, nàng được mang tên Nữ Hoàng Chân Đất (hay Nữ Hoàng Sân Cỏ)(*). Những bước chân trần tìm về dấu vết tình yêu nguyên thủy. Những bước chân đi khâu vá lại vết thương của một thời máu xương điên loạn.
“Nếu không có tiếng hát Khánh Ly thì chúng ta có những gì, còn gì?” Nếu chỉ được chọn một câu để nói về người ca sĩ đã cống hiến gần cả cuộc đời cho âm nhạc, thì tôi xin chọn câu nói trên của MC Lê Đình Ysa trong “Đêm mừng Khánh Ly 80 tuổi” được nhóm bạn trẻ Nina Hòa Bình Lê, Ann Phong, Lê Đình Ysa, Nguyễn Lập Hậu & Jimmy Nhựt Hà... tổ chức vào tối thứ Sáu 7/3/2025 tại quận Cam, Nam California.
Người ta thường gói ghém một cuộc đời trong dăm ba trang giấy để gọi là hồi ký. Người ta cũng thường dùng thước đo của 10 năm, 20 năm, 30 năm… để hoài niệm một điều gì đó, cho dù là hạnh phúc hay mất mát. Nhưng không dễ gì để tái hiện cả một cuộc đời dài 80 năm, trong đó có lịch sử, có tình yêu, có nhân quả, có triết lý sống, có ân tình, có nghệ thuật, có tài năng… chỉ trong một đêm. Vậy mà, Đêm-Khánh-Ly-80-Tuổi, đã làm được điều đó.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.