Hôm nay,  

Chuyện tình

02/05/202214:14:00(Xem: 4033)

Truyện ngắn

couple-in-love

 

 

Đây là một câu chuyện mà các đôi uyên ương nên đọc

 

Tôi đã chia sẻ câu chuyện này với người bạn cách đây không lâu. Hôm nay tôi muốn gởi đến quý vị. Khi quý vị đã có bạn để chia sẻ cuộc sống, dù bạn đã thành hôn hay chưa, bạn nên đọc.

 

Khi tôi về đến nhà và vợ tôi đang dọn bữa ăn tối, tôi cầm lấy tay nàng và nói: "Anh có chuyện muốn nói với em". Cô ấy lặng lẽ ngồi xuống, không nói một lời và bắt đầu ăn.

 

Tôi lại thấy đôi mắt nàng lộ vẻ khổ đau.

 

Bỗng nhiên tôi cảm thấy không thể thốt lên lời nào. Nhưng tôi phải nói cho nàng biết những suy nghĩ của tôi. Tôi muốn ly dị. Tôi đề cập đến vấn đề một cách bình thản. Cô ấy trông chẳng có vẻ gì bực bội khi nghe tôi nói, mà chỉ hỏi tôi lý do tại sao?

 

Tôi làm như không nghe câu hỏi. Thế là nàng nổi giận, ném đũa về phía tôi, và hét lên: "Anh không phải là một thằng đàn ông!"

 

Buổi tối hôm đó, chúng tôi không nói với nhau lời nào. Cô ấy chỉ khóc. Tôi biết cô ấy tự hỏi chuyện gì xảy ra cho hôn nhân của chúng tôi. Nhưng tôi không thể đưa ra một lời giải thích nào ổn thỏa, trái tim tôi không thuộc về nàng nữa, nó đã bị Jane chiếm trọn rồi. Tôi không còn yêu nàng nữa, mà chỉ cảm thấy thương hại!

 

Bằng một cử chỉ thật tội lỗi, tôi đưa cho nàng giấy tờ tôi sắp xếp cho việc này, nào là tôi nhường lại xe và nhà cho nàng, và chia 30% tiền lời trong công ty của tôi. Cô ấy thoáng liếc mắt vào tờ giấy, rồi xé vụn ra từng mảnh.

 

Người phụ nữ này, người đã sống với tôi suốt 10 năm tròn, bây giờ trở nên xa lạ. Tôi thấy thật tội nghiệp cho cô về khoảng thời gian tiêu hao đi bao nhiêu sức lực để vun đắp gia đình, thật uổng phí, nhưng thật sự tôi không thể nói khác được, vì tôi thật sự yêu Jane.

 

Bỗng nhiên vợ tôi bật khóc thật to, tôi đã biết trước thế nào nàng cũng khóc như vậy. Nói cho cùng, nàng khóc làm cho tôi cảm thấy nhẹ hơn. Ý định ly hôn luẩn quẩn trong đầu tôi từ nhiều tuần nay bây giờ trở nên quả quyết và rõ ràng hơn.

 

Hôm sau tôi trở về nhà rất muộn, và tôi thấy nàng đang ngồi viết ở bàn. Tôi không muốn ăn tối, mà vào phòng và ngủ ngay vì tôi rất mệt sau một ngày bận rộn với Jane. Khi tôi tỉnh giấc, nàng vẫn còn ngồi viết. Tôi chẳng bận tâm, và lại quay ra ngủ tiếp.

 

Đến sáng, cô ấy đưa cho tôi xem những điều kiện về việc ly dị: cô nàng không muốn tôi phải đưa hoặc làm gì cho cô, nàng chỉ cần một tháng để chuẩn bị trước ngày ký giấy. Yêu cầu của nàng là trong suốt tháng đó, cả hai chúng tôi đều phải phấn đấu để sống một cách bình thường trong khả năng của mình. Lý do nàng đưa ra rất đơn giản: con trai chúng tôi phải trải qua một kỳ thi quan trọng vào cuối tháng và nàng không muốn bất kỳ lý do nào sẽ làm xao lãng con vì một cuộc hôn nhân đổ vỡ. Điều này rất tuyệt đối với tôi. Nhưng rồi nàng lại thêm một điều kiện khác nữa, nàng hỏi tôi có thể nhắc lại ngày cưới tôi đã bế nàng như thế nào vô phòng tân hôn sau khi tiệc tan không.

Điều kiện thứ hai là trong suốt ba mươi ngày đó, mỗi buổi sáng, tôi phải bế nàng từ phòng của chúng tôi ra đến ngưỡng cửa. Tôi không hiểu sao cô ta lại trở nên điên rồ như vậy. Thôi thì, để cho nàng được thoải mái trong những ngày sau cùng với tôi, tôi chấp nhận những yêu cầu kỳ quái của nàng. 

 

Tôi nói cho Jane biết những điều kiện kỳ lạ của vợ tôi về việc ly dị.

 

Jane phá lên cười và cũng nghĩ điều đó thật là điên rồ. Jane lại nói thêm một cách khinh miệt rằng cho dù vợ tôi có dùng những thủ đoạn gì đi nữa thì cô ta cũng phải đối mặt với việc ly hôn.

 

Kể từ khi tôi quyết định ly dị, vợ tôi và tôi không còn đụng chạm nhau nữa. Thế nên ngày đầu tiên khi phải bế nàng ra, cả hai chúng tôi đều thật vụng về. Con trai chúng tôi thì đi theo sau và vỗ tay, miệng không ngớt kêu lên: "Ôi! Ba đang bế mẹ kià!" Những lời đó làm cho tôi đau buồn. Từ phòng ngủ ra đến phòng khách, rồi ra đến cửa, tôi đã mang nàng trên tay khoảng 10 cây số như thế. Cô nhắm mắt lại và nhẹ nhàng yêu cầu tôi không nói đến chuyện ly hôn cho con trai. Tôi gật đầu đồng ý, và có một cảm giác kỳ lạ hầu như rất đau lòng.Tôi đặt nàng xuống, bên ngoài cửa ra vào. Nàng đến trạm chờ xe buýt để đi làm. Tôi lái xe một mình đến sở.

 

Sang ngày thứ nhì, cả hai chúng tôi đỡ vụng về hơn. Cô ấy nép sát vào bụng tôi. Tôi có thể ngửi thấy mùi nước hoa từ áo nàng thoảng bay ra. Bây giờ tôi mới nhớ lại là từ lâu nay tôi chưa ngắm nhìn người đàn bà này, và nhận ra rằng cô ấy không còn trẻ nữa. Trên mặt đã xuất hiện những nếp nhăn, còn tóc thì đã hoa râm rồi!

 

Ôi, cuộc hôn nhân của chúng tôi đã tàn phá nét thanh xuân của nàng như thế đó. Trong một thoáng, tôi tự hỏi mình đã làm gì để cô ấy nên nỗi.

 

Đến ngày thứ tư, tôi cảm nhận được sự thân thương lúc xưa đã trở lại. Chính người phụ nữ này đã hy sinh những 10 năm trong suốt cuộc đời của cô ấy cho tôi.

 

Rồi ngày thứ năm, thứ sáu, tôi nhận được sự gần gũi ngày càng trở nên thân mật hơn. Tôi không hề tiết lộ điều này với Jane. Giờ đây việc bế nàng trở nên ngày càng dễ dàng hơn khi thời gian trôi qua dần trong suốt tháng. Có lẽ công việc mỗi ngày này làm cho tôi trở nên mạnh mẽ hơn chăng.

 

Một buổi sáng nọ, khi nàng cố tìm áo quần để mặc, nàng thử vài chiếc áo, nhưng vẫn không thấy chiếc nào thích hợp. Nàng nói lẩm bẩm, ôi sao không có chiếc áo nào cả, cái nào cũng quá rộng.

Bỗng dưng tôi nhận ra rằng cô ấy đã gầy đi, và đó chính là lý do tại sao bây giờ tôi có thể bế nàng trên tay dễ dàng hơn. Điều này làm cho tôi thật bàng hoàng, cô ấy đã giấu kín bao nỗi khổ đau cay đắng trong lòng từ bao lâu nay.

 

Bàn tay tôi đưa lên chạm vào đầu nàng lúc nào không hay.

 

Ngay lúc đó con trai chúng tôi vào và nói: "Ba ơi, đến giờ phải bế mẹ ra ngoài rồi đó ba à". Bây giờ đối với cậu bé, việc đứng nhìn cha nó bế mẹ ra cửa trở nên một phần thiết yếu trong cuộc sống rồi. Vợ tôi ngoắc tay bảo con đến gần và ôm nó thật chặt. Tôi phải quay mặt đi vì tôi lo sợ trong giây phút này mình sẽ đổi ý mất thôi. Rồi tôi ôm nàng vào lòng, đi từ phòng ngủ ra phòng khách và đến ngưỡng cửa. Nàng quàng tay vào cổ tôi một cách nhẹ nhàng và quen thuộc. Tôi ghì lấy nàng thật chặt, và cảm thấy như đây là ngày cưới của chúng tôi. Nhưng thân thể gầy mòn của nàng khiến tôi thật đau lòng.

 

Đến ngày cuối tháng, khi đã ôm nàng trong tay, tôi cảm thấy đôi chân mình nặng trịch, không lê bước nổi. Con trai đã đi đến trường. Tôi lại ôm nàng thật chặt và nói: "Anh không để ý rằng cuộc sống của em và anh lâu nay mình thiếu thân mật đến thế, em ạ".

 

Tôi vội lái xe đến sở và nhanh chóng nhảy thót ra khỏi xe mà không màng khép cổng lại. Tôi rất sợ trì hoãn thêm một giây sẽ làm tôi đổi ý, và tôi leo nhanh lên các bậc thang. Jane chạy ra mở cửa, tôi nói với cô: "Anh rất tiếc, Jane ạ, bây giờ anh không muốn ly dị vợ anh nữa".

 

Cô ấy sững sờ nhìn tôi, đưa tay lên sờ trán tôi. Anh có bị lên cơn sốt không vậy? Tôi đẩy tay cô ta ra.

 

"Anh rất tiếc, Jane ạ, nhưng anh không ly dị đâu. Cuộc sống hôn nhân giữa anh và vợ anh có lẽ trở nên chán chường bởi vì cả cô ấy và anh đều không biết đến giá trị những giờ phút bên nhau, chứ không phải tình yêu của chúng tôi đã nhạt phai. Bây giờ anh nhận ra rằng từ khi anh bế cô ấy vào căn nhà yêu thương của mình ngày hôn lễ, bổn phận của anh là phải ở bên cô ấy để lo cho cô ấy cho đến lúc cái chết chia lìa chúng tôi".

 

Một thoáng trôi qua, rồi thình lình Jane lộ vẻ thức tỉnh. Cô ấy giáng cho tôi một cái tát thật mạnh, đóng sập cánh cửa rồi bật khóc. Tôi đi xuống và lái xe về.

 

Khi về, đi ngang một tiệm hoa, tôi đặt một bó hoa thật đẹp cho vợ yêu của tôi. Cô gái bán hàng hỏi tôi muốn ghi như thế nào trên tấm thiệp. Tôi mỉm cười, đặt bút ghi rằng, "Em yêu, anh sẽ bế em ra ngoài cửa mỗi buổi sáng cho đến ngày chúng ta phải xa cách để về cuộc sống bên kia".

 

Chiều hôm đó tôi về đến nhà, cầm bó hoa trên tay, với nụ cười tươi tắn trên môi, chạy thật nhanh lên cầu thang... và rồi... nhìn thấy vợ tôi đơn độc nằm trên giường – Ngưng thở!


Vợ tôi chống chọi với căn bệnh UNG THƯ từ nhiều tháng nay, nhưng tôi đã làm gì? Tôi quá bận bịu bên Jane nên không còn nhận thấy điều gì nữa cả. Cô ấy biết rằng mình sẽ từ giã cõi đời trong thời gian rất gần, nên muốn ngăn ngừa những phản ứng tiêu cực của con trai, nếu như việc ly dị xảy ra. Nhất là đối với cháu, tôi vẫn là người chồng rất mực thương yêu vợ.

 

Bạn ạ, chính những chi tiết nhỏ nhặt trong cuộc sống là những điều quan trọng nhất trong quan hệ lứa đôi; đó không phải là căn nhà, cái xe, tài sản, ngân khoản ở nhà băng. Tất cả những thứ này chỉ tạo niềm vui với tất cả thế giới quanh ta nhưng không thể mang lại niềm hạnh phúc cho bản thân mình.

 

Thế nên bạn hãy dành thời gian để làm người bạn thân thiết của vợ mình và hãy thực hiện những chi tiết ấy cho nhau, điều này mang đến sự mật thiết ấm cúng cho nhau, bạn nhé.

 

Rất nhiều người đã thất bại trong cuộc sống, chỉ vì lý do rất đơn giản, bạn biết không? Họ không nhận thức được rằng họ đang sắp chạm đến thành công mĩ mãn, nhưng lại vội buông xuôi.

 

-- Theo lavitaliteverte/indiantigre -- tháinữlan dịch.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.