Tuệ Mai – Nhã Ca: Hai tác giả nổi tiếng trong dòng văn học 20 năm của miền Nam Việt Nam.

06/05/202200:00:00(Xem: 4841)
 
Nhã Ca với tập thơ đầu tay Nhã Ca Mới, đoạt giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc về thơ năm 1965. Giải Khăn Sô Cho Huế (1969) đoạt Giải Văn Chương Toàn Quốc về văn năm 1970, và Tuệ Mai đã đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc về thơ năm 1966 với thi phẩm Không Bờ Bến. Thơ. Họ là cột mốc đánh dấu cho sự chuyển mình khai phá bứt ra khỏi phong cách thi ca tiền chiến. Thi ngữ, thi ảnh nơi họ khơi gợi ở người đọc cảm xúc mới mẻ, thi pháp tuy còn giữ nhiều về thể luật của các loại thơ vần điệu, nhưng được chở dưới nhạc điệu cấu tứ mới – kể cả lục bát – nên cũng có thể nói họ đã cách tân những thể loại thơ này vào thời đó, đặc biệt, ở thể loại tự do, với Nhã Ca, một luồng gió mạnh thổi bật gốc rễ của trói buộc ngôn từ, định kiến. Và cho đến lúc này, chúng ta đã khẳng định được rằng thơ họ là nền tảng, bệ phóng, là bước mở đường vững chãi cho lớp nhà thơ nữ ở thế hệ kế tiếp. Họ gieo trên mảnh đất màu mỡ của thi ca những hạt giống tốt, từ đó cây lên mạnh, hoa đẹp hơn và quả ngon hơn. Chẳng phải là một truyền thừa quý báu và may mắn cho thế hệ sau lắm sao!

nha tho tue mai
Tuệ Mai
 
TUỆ MAI (1928-1982): bà là ái nữ của nhà thơ nổi tiếng Á Nam Trần Tuấn Khải). Bà đã cho ra đời nhiều thi phẩm, trong đó tập Không Bờ Bến đã đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc về Thơ năm 1966.  Bài thơ Vu Quy của bà được Phạm Duy phổ nhạc và nổi tiếng qua tiếng hát July Quang. Tuệ Mai nói gì về Thơ và về cái Tôi? Gói gọn trong bốn câu rất thơ và rất đạo ở đoạn này:
 
Tôi thơ mãi cho thơ tôi góp
thành số không ở cõi chon von
khi xếp cánh nghỉ dài vô hạn
tôi yêu tôi con số khoanh tròn…
(Thơ Tuệ Mai,1974)
 
Đa số thơ Tuệ Mai làm theo thể 5 chữ, 7 chữ và lục bát, nhưng thơ tự do của Tuệ Mai ngày nay đọc lại chúng ta vẫn thấy hơi mới mẻ của nó, như những thơ trích dẫn sau:
 
TRƯỚC SAU
 
Vòng khăn tang lớn dần quấn hãm đời nàng
Giải khăn tang dài, dài hơn con đường tự khởi điểm thôi nôi
Tới khúc quanh năm tháng
Những đám tang
Ôi những đám tang huyệt mùa đông ngăn ngắt
Bia mộ dựng trong nàng
Mỗi một bia một ngọn lửa tàn
Bên một con sông cạn
Như một tắt âm thanh…
Thế giới nàng ngày mở ra với bao nhiêu ngọn lửa
Bao nhiêu dòng sông
Bao nhiêu tiếng hát
Những tiếng hát cao như dự tưởng của nàng
[…]
(Trích đoạn)
 
 
KHU VƯỜN NHÀ NGỤC TÔI

Có phải chúng ta
công việc bắt đầu là
dựng xây nhà ngục

Ngục mọi người đều gắng thật to
tống giam mình vào đó
suốt đời không cho ra

Bằng sức lực thanh xuân,
tôi dựng lên những bức tường cao ngất
bằng trái tim tuổi trẻ,
tôi đốt lên những vòng lửa rực trời
bằng bước chân kiêu hãnh, tôi hăm hở đẩy thân tôi
bằng bàn tay khéo léo, tôi ra sức đóng cài mọi cửa

Và tôi rất tự do
đi lại trong nhà ngục
và ngục rất tự do
xoay cùng tôi đây đó

Tôi trang trí ngục tôi
bằng những hình ngộ nhận
đang thể hiện nơi nơi
bằng những hình xung đột
trong tranh chấp đời đời

Bằng muôn vàn khắc khỏai
trong tình ái tuyệt vời
bằng não tâm dã thú
trong bộ áo con người
bằng rất nhiều tráo trở
trong nhân loại là tôi

Như thiêu thân tự do lao vào đèn
tôi tự do xây nhà ngục cao thêm

Tháng ngày leo miết quanh chòi sắt
để thấy mình đương sống hiển nhiên
  
NHƯ ĐỜI TRẺ LẠI
 
Tôi vẫn đi đây lòng đầy tín ngưỡng
(xin đừng bắt vào thờ phụng nơi đâu)
sắc áo hồn nhiên sắc cờ tự tại
tôi với mênh mang, tôi với muôn màu
 
Tôi đang đi đây, tôi đang đi đây
đừng hỏi tới đâu, đừng hỏi bao ngày
xuân hạ thu đông người rành rẽ việc
tôi vô dụng hoài như chim bướm bay
[…]
(Trích đoạn)
 
Và tôi, tôi với đêm sâu
Chợt đau vai yếu, chợt đau sử buồn
Quãng dài tanh tưởi máu xương
Quê hương thí điểm – quê hương nát nhàu...
(trích đoạn bài Nét Nhìn Rạng Đông)
 
ĐÊM TÔI

dòng thương nét nhớ miên man
tôi năm dấu chữ trên trang thư tình
tim dồn nhịp chấm âm thanh
lửa người hồn khói lênh đênh tưởng vời

sầu mi giọt đọng thương hoài
tôi viên thuốc ngủ đưa người qua đêm
còn không môi nóng môi mềm
tôi ly nước cạn đứng yên góc bàn

nhạc mềm ru bước tình lang
tôi trăng giữa tháng cười vàng đêm xanh
chợ đời vui quá đi anh
tôi bìa tạp chí mang hình phấn son

bụi tung ngã rẽ đường còn
tôi giày da cũ đế mòn lạc đôi
đêm mờ làng cũ xa xôi
tôi con đom đóm vờn soi ao bèo

người tình duyên quấn quít theo
tôi cây thay lá trên đèo còn trông
bạn bè ngủ giấc buồn chung
tôi trao cánh vạc thinh không thốt lời...

– Tuệ Mai
 
Nhã Ca - Nguyễn Trung phác họa
Nhã Ca
 
NHÃ CA (sinh năm 1939 tại cố đô Huế): Theo Du Tử Lê, thì Nhã Ca – một xuất hiện rực rỡ của văn học miền Nam – Thơ bà “là những cánh cửa hé mở cho thi ca miền Nam thời kỳ đó, một chân trời khác.” Qua thời gian, nhận xét này càng chứng tỏ tính không thể phủ nhận của nó. Nhã Ca nổi tiếng cả về thơ lẫn văn. Với thi phẩm đầu tay, Nhã Ca Mới, bà đã đoạt giải Văn Chương Toàn Quốc về thơ năm 1965. Và Giải Khăn Sô Cho Huế (1969) đoạt Giải Văn Chương Toàn Quốc về Văn năm 1970.
 
Thể loại thơ tự do của Nhã Ca là bước chân khai phá đầy ngạc nhiên và quyến rũ, không những riêng thời điểm nó xuất hiện, mà trụ lại vững chãi cho tới bây giờ, một sự mới không hề bị cũ đi, vẫn lừng lững bên cạnh thơ hiện đại của lớp nhà thơ trẻ hiện nay, xin đọc bài thơ này, bà sáng tác năm 1972, để thấy cái không thời gian của nó, để thấy hầu như, bản chất của nó là đương đại.
 
ĐÀN BÀ LÀ MẶT TRỜI
 
Vườn hoa nào cũng ở trước mặt chúng ta
Mùa xuân nào cũng nở cho ta những bông hồng
Hỡi các chị, chúng ta đều đẹp như mặt trời
Tinh khiết như bình minh
Vì chúng ta làm ra ái tình
Ra hoa lá và sự sống trên trái đất

Những người nam đã tán tỉnh chúng ta
Và chúng ta đã chọn cho lòng mình
Một ông vua
Trong những người nam đã gặp
Hỡi các chị đến gần tôi coi
Đến gần tôi và cùng rực rỡ

Chúng ta đã tạo một thiên đường
Đã tạo nên nhiều vị vua
Bởi chúng ta đẹp đẽ và xinh tươi
Vì những ham muốn đã tắm rửa cho chúng ta
Xui chúng ta nóng bỏng như lửa
Và lửa từ mặt trời
Mặt trời xinh đẹp
Chị có đôi mắt sâu như giếng nước phương Nam
Chị có tóc mun đen như dòng sông đêm Ai Cập
Chị có lòng nồng nàn, dữ dội như biển đông
Chị có ái tình ngọt như mật ong
Tôi sẽ tới van xin các chị
Nài nỉ các chị cho tôi mượn tất cả
Để tôi khoe với chàng
Đem tới cho chàng
Để chàng nâng niu
Coi tôi như công chúa

Chúng ta, mỗi người phải là một công chúa

Người đàn bà nào cũng đẹp
Mùa xuân và hoa hồng đều nở vì chúng ta
Chúng ta ban phát ái tình
Cho thiên đàng của chúng ta tươi tốt mãi

Chúng ta mua từ núi cao
những màu xanh rất non
mua từ rừng
những lá cây rất vàng
mua từ đất
những giếng nước rất ngọt
và từ biển
trân châu cùng ngọc bích
để trang điểm cho chúng ta đẹp đẽ
Chúng ta góp sông, núi, đồi trên thân thể
và rừng trong tóc

Tôi sẽ hỏi mượn các chị
mọi thứ xinh đẹp và nóng bỏng
tôi sẽ gõ các cánh cửa im lặng thật nhẹ
để chàng kinh hoàng nhận ra tôi

Tôi sẽ làm rụng hết những giọt sương
đang lóng lánh trong hồn chàng
những giọt sương sẽ rụng và làm nên hài nhi
cùng sự sống
cho thiên đàng chúng ta
đông đúc và vui tươi
Tôi sẽ là mặt trời trong lòng chàng
Buổi mai nào cũng lộng lẫy rực rỡ

Tôi sẽ mát như trăng nhưng cũng nóng hơn lửa
hơn cát ở sa mạc
hơn cả cơn giận
của trận hồng thủy trong thánh kinh
Bởi tôi là đàn bà
người đàn bà nào cũng xinh đẹp
cũng làm ra sự sống

Hỡi các chị chúng ta sẽ nối tiếp nhau đẹp mãi
Để những bông hoa của mùa xuân
Phải quanh quẩn chiêm ngưỡng

Hỡi các chị hãy đến đây và làm điên đảo
Sự quay cuồng vui thú của trái đất
Chúng ta luôn luôn xinh đẹp và ở trên cao
Các chị có đôi vú ngọc bích
Có da sữa, tóc dài
Có má hiền, môi mật
Đừng để những kẻ đi săn lạc đường
Hãy dẫn dắt và tội nghiệp họ
Hãy hung dữ với họ như sư tử
Hãy dịu dàng với họ như nai
Để họ quay như trái đất quanh mặt trời
Là chúng ta mãi mãi
Để chúng ta cho họ ngày đêm và bóng tối

Tôi sẽ lùa bóng tối thật dầy vào đêm của chàng
những ánh sáng nóng bỏng cho ngày của chàng

Chúng ta là những người nữ xinh đẹp
Xinh đẹp hơn mọi loài trên trái đất
Chúng ta có lòng ghen mạnh như bão
Chúng ta có sự tinh khiết trong như trăng
Chúng ta có thịt da, có núi, có rừng
Chúng ta đỏ như mặt trời
Đen như đêm
Và vàng như lửa

Tôi cũng có một ông vua cho ái tình tôi
Tôi cũng đã chọn chàng
Để sự sống tràn trên trái đất
Tôi sẽ đi góp nhặt từ mặt trời
Từ phương đông, phương tây, từ những buổi sớm mai
Những sữa, kem và mật để làm nên rượu ngọt
Để pha hương thơm trên thân thể mãi mãi
Trên thịt da tôi mà chàng yêu dấu

Cám ơn Thượng Đế đã cho tôi đôi vú
cho tôi da mịn và tóc dài
cho tôi rực rỡ như mặt trời
để tôi làm ra ái tình và rượu ngọt
tràn trên trái đất

Hỡi các chị hãy đến nhìn tôi coi
Hỡi các chị vô cùng khả ái và xinh tươi
Hãy đến nhìn tôi coi
Tôi đang đỏ đang đen
Đang làm ra nước làm ra lửa

(Thơ Nhã Ca, NXB Thương yêu, 1972)
 
Để ý, trong bài thơ này Nhã Ca nói đến nhiều mặt về nữ tính, Tôi-đàn bà, ở đây là kính mặt trời vạn hoa mỗi phản chiếu tỏa ra ẩn dụ những thi ảnh và thi ngữ tuyệt vời khiến bài thơ vừa mang tính cách hiện thực, mạnh mẽ, rực lửa của nữ tính mà vẫn lấp lánh mặt kia của nó là thơ mộng và lãng mạn. Từ đó cho chúng ta thấy nữ sĩ đã thể hiện quan niệm về nữ quyền là một chọn lựa có ý thức và kiêu hãnh. Đó là thông điệp rực rỡ của thơ Nhã Ca.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong tập Bốn Mùa Trời và Đất, Márai Sándor cảm giác về mùa hè, …Tôi đứng trên ban công, giữa một vùng xanh, nghe tiếng rì rào thức dậy của cây cỏ. Mùa hè đây rồi, tôi nghĩ; và nó giống như một cảm xúc tràn ngập trong tôi, không khoan nhượng, và đầy những kỷ niệm giản dị… (Giáp Văn Chung dịch) Trong tản văn Hoa Nở Vì Ai, Vũ Hoàng Thư viết, …Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm… Và mùa hè trong truyện của Đặng Thơ Thơ, … Đó là lúc chín nhất của mùa hè. Những trái táo bắt đầu căng mật. Từ trong lá cây thoảng ra những ngọn gió màu xanh thẫm...Ở Cảnh Nhàn của Bạch Vân Cư Sĩ có thú sống, xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…, có lẽ thời của người, nước còn trong ao còn sạch.
Bạn đang nghe thấy gì trong khí hậu tháng Tư? / Tiếng kêu từ đáy huyệt cuối trời. / Tiếng gió xoáy những cột cờ tử thương tuẫn tiết. / Tiếng phố vỡ triệu mảnh thủy tinh cắt lồng ngực tháng tư rỉ máu mãi chưa khô. / Tiếng sóng hôi dao mùi hải tặc từ oan nghiệt một thời biển huyết. / Tiếng oan hồn dật dờ tìm về cố quận, đáy vực kia bầy cá hoang tảo mộ. / Tiếng hậu chấn từ tâm hồn con dân tháng Tư choàng lên thảng thốt. Dấu chàm xanh lưu xứ để nhận ra nhau. / Tiếng con bướm gáy trong giấc ngủ đôi bờ chiến tuyến. / Tiếng vô vọng của dòng thơ đớn đau, sỉ nhục trải dài trên đất đai tổ quốc. /Tiếng mong mỏi trên những dòng thơ đang vuốt mắt lịch sử, xin hãy chết yên, chết quên, và mở lòng ra ôm những vết thương, trồng lại bóng Quê Nhà…
“Chìm trong biển chết trôi tim người / Còn gì đâu tiếc thương xa xôi …” Chiếc tàu nhỏ rời bến Constantine, Algeria, chở Enrico Macias đến một nơi xa lạ, người lưu vong không bao giờ được phép trở về. Làm sao cánh chim di có thể quên lối cũ? Chiến tranh xua đuổi ông ra khỏi quê nhà. Tàu khởi hành không một người đưa tiễn. “Người tình ơi, ta xa nhau. Mượn đôi mắt em lên đường.” Với cây guitar làm hành trang, ông ghi lại, “J'ai quitté mon pays …”
Hãy tạm để những chuyện buồn nằm im dưới mâm cỗ ngày Tết, để ta chỉ được thấy màu xanh lá bánh chưng, màu đỏ ối ruột dưa hấu, màu vàng đỏ tung xòe trong những bao lì xì nhỏ, màu nắng chín nhấp nháy trên những trái quất… bây nhiêu đó có đủ để bạn đón hơi thở mới của đất trời? Hy vọng vậy để chúng ta được mọc lên như cỏ non trên khung rêu ngày tháng cũ. Bài thơ của Nguyễn Hồng Kiên tôi đọc được từ trang của trường Mầm Non Cự Khối, bài thơ được dạy cho các em lứa 4 tuổi, như một lời chúc tết hồn nhiên.
Cho nhân dân tôi, thức dậy trong bóng tối, những người hát bài ca im lặng, những người than thở trong im lặng, những người nổi giận trong im lặng, những người yêu nhau trong im lặng, lời cầu Nguyện cho nhân dân tôi, những người đi trên đường, chạy tất bật từ sáng đến tối, cho bữa ăn của người nghèo đói, hít thở khói và bụi, những người già trước tuổi, những người không bao giờ biết hát, những người không bao giờ biết cười, những người không bao giờ biết nói dối
Houston mùa hè nóng có thể nướng thịt trên mui xe hơi./ Họa sĩ bò dưới đất vẽ chân dung kiếm tiền đổi rượu./Nàng mẫu ngồi khép hở y phục lả lơi./ Đường nét sắc màu bỗng dưng tơi bời khung bố, trời đất sẽ vô cùng phẫn nộ, nếu đàn ông không thích đàn bà, nếu bàn tay cứ chăm chú vẽ./ Tao không kể hết chuyện để người đọc tự đoán. Xe cứu thương chuẩn bị hụ còi. Bác sĩ xuất hiện. Mày ôm bức tranh nằm thoi thóp . /Tao thấy hết từ đầu qua khe cửa phía sau.
Những bài thơ xuất sắc của Giáng Vân nằm ở biên giới giữa điều có thể nói và điều không thể nói ra. Thơ chị có nhiều đề tài, tình yêu, suy tư lịch sử, những xúc động mới về thế giới hiện nay. Đó là một loại thơ sâu kín, cắm rễ trong vùng tối đen của tiềm thức, nhưng hướng về phía ánh sáng. Giáng Vân không ngần ngại nói về sự bế tắc, sự cùng đường của xã hội, cái chết và sự diệt vong của con người. Trong tập thơ gồm 36 bài, những mảng tối được thấy rõ, sự buồn rầu, lo lắng, cảm giác phẫn nộ, nhưng chị nói nhiều hơn đến sự vượt qua. Chị tin vào tâm hồn. Thơ chị có hai nguồn mạch: những câu chuyện riêng tư và những nỗi lo âu của thời đại mình. Chị có những bài thơ đi tới chỗ tận cùng, nơi giao điểm của hai niềm cảm hứng, đó là một kiểu thơ trữ tình thời sự hiếm gặp hôm nay.
Nhà thơ Vũ Trọng Quang bảo mũi tên ấy bay hoài bay không tới. Làm sao bay kịp thời gian. Hoặc giả như vầy. Nơi tôi ngồi cố định, và. thời gian đi qua đi qua. Khi lời thơ vừa thốt lên là lúc tôi rơi mất thời gian. Không gian nào giữ những lời đi. Ở những bài thơ sau đây bạn có thể thấy được nơi thời gian và không gian gặp nhau trong nhịp lẫy tình cờ. đã ra đi là muôn đời ở lại…Bây giờ là bao giờ??? Bao giờ là bây giờ!!!, chiếc kim đồng hồ lẩn thẩn/ như con kiến già bò trên miệng chén… …Bạn cùng tôi như ai kia thập tự vác mình qua đông gió, cứu chuộc nỗi tàn phai của Màu thân thể ngó chừng cũng cũ cùng sự lãng quên muôn đời, để có thể trong thế giới siêu hình yên tĩnh của ta được an ủi Mưa trầm trầm dương thế/ Ngấm sâu miền âm gian… , dù mưa không dội sạch được những linh hồn run rẩy, và dẫu Đó là cánh cửa bí mật/ từng khép cửa linh hồn…
Nhịp lá rơi đang xô chèo dòng thu cập bến. Những con thuyền năm tháng sẽ tiếp tục dong buồm. Nơi chốn nào gọi là đáy đĩa mùa đi ơi Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh? Có phải là nơi Bình tàn thu vai phấn nghiêng rơi của thi nhân 80 năm trước? Hay trong cơn khát của mùa thu của Trang Thanh? Hay nơi dấu chân em lối vàng xưa của Lê Hoàng Anh? Hay nơi mùa trăng hóa quỳ vàng của Lê Vĩnh Tài? Hay nơi mặt đất dâng lên nuốt ánh mặt trời của Duyên? Hay nơi tiếng chạm của những viên đá tím của Nguyễn Thị Khánh Minh? Hay nơi rực rỡ hoàng hôn rực rỡ Đêm tháng 11 cuối cùng của Lê Chiều Giang?
Bài thơ này đăng trên Việt Báo vào ngày 10 tháng 8 2024. Người dịch nói rằng “…Bài này hợp với tinh thần Phật Giáo…” Tác giả Henry Wadsworth Longfellow là một nhà thơ nổi tiếng vào bậc nhất ở Mỹ trong thế kỷ 19. Trong tiểu sử không thấy nhắc ông có nghiên cứu về Phật Giáo. Có thể giải thích rằng những gì thuộc về chân lý, sự thật thì sẽ mãi mãi tồn tại, bất kể Đức Phật có thuyết giảng hay không.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.