Hôm nay,  

Cũng có khi trăng đỏ

17/05/202207:34:00(Xem: 2974)

Truyện ngắn

giang

                                                                               

Mùa trăng, với chúng tôi chỉ có một ngày duy nhất. Đúng rằm, phải đúng ngày 15. Nghe cứ như ngày của cúng bái khói hương, với hoa trái cùng tiếng chuông chùa trong những chiều lao xao, đình đám...

 

Có tiếng vỹ cầm cũng như một hồi chuông, đã ngân vang cùng chúng tôi mỗi đêm rằm trăng sáng. Em, người bạn của gia đình, mà lần đầu tiên gặp trong đám đông bè bạn tới chơi nhà, tôi đã ngồi mê man nghe tiếng đàn em, lắng sâu nhưng đầy sôi nổi. Chỉ duy nhất một lần em lên căn chung cư nhỏ, sau đó em khẩn khoản, và nhất định chỉ đàn cho riêng tôi, với tôi ngay bên bờ sông vắng, mỗi đêm trăng.

 

Thương em mang bịnh tự kỷ, đã có phần ít hơn so với mê tiếng vỹ cầm, cùng với dáng em thấp thoáng chút hay hay giang hồ, bạt mạng. Tôi đã rất đúng hẹn, ngồi đợi em mỗi tháng một lần trong đêm rằm, bên dòng sông trước căn chung cư nhỏ. Có những khi em tới sớm, ngồi chờ tôi với khói thuốc mà đứng trên lầu cao nhìn xuống, tôi nghĩ em đang thả khói như một tiếng gọi mong chờ, giục giã. Phảng phất, mà tôi cũng hít hà cái hương thơm quen thuộc, đã theo gió bay quanh tới tận balcony cùng với bóng chiều tà, sắp tối.

 

Em ít nói, nhiều khi em không nói. Im lặng của em đã được thay bằng một thứ âm thanh khác, dìu dặt, mơ hồ: Massenet, Beethoven... Ánh mắt em tôi khó nhìn ra những xúc cảm, bởi ánh trăng mờ sáng chỉ đủ thấy nhờ nhờ kiếng trắng em mang, trên gương mặt có chút gì man dại. Và như thế, đêm với tôi và em đã chẳng ai nhìn nhau cho rõ mặt, đã chỉ như những khoảng bóng tối, giọi sâu xuống dòng nước nhạt nhoà, trôi giạt theo chút bàng bạc của đêm trăng.

 

Em không xe đạp, không đi xe máy. Em chẳng dùng bất cứ phương tiện nào mỗi lần ghé thăm. Sau 2 tiếng đi bộ mệt nhoài, tôi hay xót xa nhìn em ngồi lặng hồi lâu với rất nhiều khói thuốc.

Đặc biệt, violin của em không đựng trong hộp. Nó trần trụi với gió sương, cát bụi. Nó theo em cùng mưa nắng, những cơn nắng như điên, nắng chết người của Sài Gòn. Em thường đặt cây đàn ơ hờ trong lòng mỗi khi chờ tôi yêu cầu thêm khúc nhạc mới. Meditation hay Elegie... Trăng, và dáng em lồng lộng giữa trời, với tiếng đàn điên đảo, cũng đã nhiều khi làm tôi bồi hồi, chới với.

 

Nhớ có lần tôi lỗi hẹn, không xuống cùng cây vỹ cầm và em. Tôi với một nhà đầy khách, một buổi vui chơi mà đã không thể nào bỏ ngang, từ chối. Thoáng trong những lao xao của bè bạn, văng vẳng tôi nghe tiếng đàn bên sông vắng. Tiếng violin nỉ non rồi mất tăm cùng ánh trăng hò hẹn. Em đàn đi đàn lại khúc Nocturne của Chopin, bản tôi đã nghe trong buổi gặp em lần thứ nhất. Xao xuyến, tôi muốn chạy bay xuống, nhưng đã không thể nào.

 

Đêm đó, thao thức đã bắt tôi phải hình dung ra dáng em buồn bã trên đường trở lại nhà. Em nghĩ gì trong căn bệnh hoang tưởng mịt mù đầy ảo ảnh? Sự khác lạ khi không có tôi bên tiếng nhạc thanh thoát có làm em giận dữ? Sao tôi nghe ra tiếng đàn em tối nay, những nốt và nhịp bỗng dưng lệch lạc, sai sót, lúng túng, rên rỉ như những lời gọi réo, thở than.

 

Sửa soạn cho một bữa ăn chiều ấm áp. Tôi muốn có thêm Anh, để chúng tôi cùng ngồi quanh với những ly rượu đỏ và tiếng vỹ cầm của người bạn nhỏ. Đã rất ý nhị, Anh muốn để yên chỉ mình tôi với em, bên dòng sông cùng tiếng đàn se sắt. Có gì như chút lòng trắc ẩn, Anh không muốn chạm tới một cõi rất riêng của em chăng? Cõi riêng của em mà đã rất chung, cùng tôi với tiếng violin và với cả dòng sông vật vờ trăng sáng. Cõi riêng, đã giúp em vượt thoát hết buồn phiền ảm đạm, của một đời sống mờ mờ, không sáng mà cũng chẳng hề tối tăm.

 

Trải trên cỏ xanh là màu rực rỡ của cây trái và óng ánh sắc đỏ của rượu, với chút nắng chiều hắt xuống, tôi nhìn ra như một bức tranh tĩnh vật, lặng lẽ nhưng rộn ràng, xôn xao. Em đã vui hơn mọi khi, em đã nói nhiều hơn trước. Em dặn tôi đừng yêu cầu bất cứ khúc nhạc nào đêm nay, bởi em thèm một không gian tĩnh lặng. Chúng tôi ngồi với trăng mênh mông trên sông và tiếng gió ngạt ngào thơm mùi cỏ dại.

 

Chợt em nói ra cùng tôi lời tha thiết...Một phản ứng tự nhiên không ngờ, tôi đứng ngay dậy như vừa phạm phải điều tội lỗi, bỏng lửa. Trong bóng tối mà tôi nhìn ra em đỏ mặt. Em khóc. Lúng túng tôi ngồi lại bên em, tôi muốn nói lời gì có thể làm em nguôi ngoai, nhưng cổ tôi tắc nghẹn. Ngôn ngữ nhiều khi thật vô nghĩa lại có phần khó khăn, ít nhất là trong lúc này, lúc mà tôi ráng tìm cho ra chữ, trí óc tôi lại trống không, trắng xoá.

 

Tôi đã nghe tiếng khóc trẻ thơ, mẹ già, thiếu phụ. Đã nghe ra tiếng khóc của chiến tranh, đói rách cùng biết bao khổ đau, trầm luân của đời người. Và ngay cả tôi đã nghe ra tiếng khóc bàng hoàng đầy bi thảm, trước nỗi chết. Nhưng đã chẳng có tiếng khóc ai oán nào như em khóc cùng tôi đêm nay. Tiếng khóc của người chợt nhận ra mình không còn nơi nương náu. Chợt nhận ra mình tay không. Nước mắt em nhỏ làm nhòe kiếng trắng, như ngấn lệ của tôi rơi, những ngày xưa thơ ấu.

 

Điều không ngờ nhất nên tôi chẳng có chút phản ứng nào để kip ngăn cản, rất giận dữ em quăng cây đàn ra xa tắp giữa dòng sông.

 

Và chao đảo, em bỏ đi lặng lẽ.

 

Tôi đứng trong hoảng hốt, nhìn cây đàn như một chiếc lá nhỏ vật vờ trôi. Tôi bơi rất xa, tôi lạnh. Tôi một mình, đuổi theo tiếng đàn đang chết đuối giữa sông đêm. Vụng về, tôi đã chẳng nghĩ ra cách nào có thể cứu vãn cây vỹ cầm sũng nước. Xót xa tôi hơ trên lửa, lửa đỏ làm cong, uốn cây đàn mong manh ướt ra một hình thù rất khác. Tôi hình dung ra gương mặt em bên góc đàn: méo mó, rục rã như một tác phẩm điêu khắc thời Trung Cổ, xa xưa.

 

*

 

Trăng California không khác trăng Sài Gòn. Có khác chăng là tiếng vỹ cầm đã không còn đắm đuối cùng tôi bên dòng sông cũ.

 

Rất nhiều năm, tôi treo cây đàn với hình thể gẫy cong ngay phòng khách, bên cạnh những bức tranh của Anh, như một phẩm vật ẩn chứa chút kỷ niệm u hoài. Trăng cũng đã nhiều đêm giọi soi trên cây vỹ cầm những reo vui, cùng thảm đạm của bao mùa trăng cũ, và tôi vẫn nghe ra tiếng nhạc thiết tha như một gọi réo êm đềm.

 

Lần cuối cùng, dọn nhà cho một thay đổi rất mới, tìm theo chút hạnh phúc còn lại giữa đời.

Và, trước khi ra đi. Vào một đêm rằm trăng đỏ, trăng của ngàn năm mới lửng lơ giữa trời, trăng mà đỏ như chiều tàn giữa đêm thâu. Rất dịu dàng tôi thả cây vỹ cầm xuống biển. Tôi đã chẳng vùng vằng, quăng ném cây đàn tội nghiệp ra giữa dòng sông như em.

 

Thiên hạ thường ra giữa lòng biển để rắc những tàn tro. Tôi đứng trên bờ nhìn cây đàn của em trôi dần xa, như tìm cho nó một nơi chôn cất mới.

 

Biển không êm ái, lồng lộng với gió đêm.

 

Dưới ánh trăng rực rỡ và đỏ như màu của máu ai, tôi thoáng thấy gương mặt em thảng thốt, vói theo cùng tiếng nhạc như một lời oán trách trăm năm.

 

LêChiềuGiang

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.