Hôm nay,  

Vài chuyện về Cung Tiến

6/10/202200:00:00(View: 2419)
Tdinh__DSC2606
Từ trái: Nữ tài tử Kiều Chinh, Nhạc sĩ Cung Tiến, Nhạc trưởng Nguyễn Khánh Hồng, và MC Lê Đình Y-Sa tại đêm nhạc Cung Tiến "Vết Chim Bay" do Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ (VAALA) tổ chức vào tháng Bảy năm 2010 tại La Mirada Theater, Nam California
 
Đầu thập niên 1990, tôi có diễm phúc được làm việc với nhạc sĩ Cung Tiến và từ đó dần trở nên một người bạn thân với gia đình ông. Trước đó, tôi nghe người ta đồn là nhạc sĩ Cung Tiến ‘khó tính” lắm! Nhưng qua những lần làm việc với ông, tôi thấy ông bị oan. Ông không khó tính vì xấu tính.  Ông thực ra là một người rất nhỏ nhẹ, trí thức và uyên bác mà khiêm tốn. Ông chỉ có tiêu chuẩn cao cho nhạc của ông và ông mong muốn nhạc của ông được trình bày với những tiêu chuẩn đó.  Tôi đã có cơ hội học hỏi thêm về những tiêu chuẩn này của ông.  

Lúc ấy nhân duyên đưa đẩy, tôi được biết đến bài Vết Chim Bay của ông và xin phép ông cho tôi thu âm bài đó vào CD. Ông chắc cũng chưa nghe tôi hát bao giờ, nhưng cũng cho phép, mà cũng không nhận tiền bản quyền, lại còn cho tôi cả bản hòa âm phối khí dàn nhạc của ông cho tôi sử dụng nữa!  Khi tôi đưa bài cho Duy Cường làm theo hòa âm phối khí của Cung Tiến thì Cường  “kêu” là mất công lắm.  Thường thì các nhạc sĩ Việt Nam viết ca khúc chỉ viết giai điệu thôi, có thể viết thêm những hợp âm cho bài hát, nhưng rất ít người viết soạn hòa âm hay phối khí cụ cho bài hát của mình.  Do đó, các nhạc sĩ hòa âm tha hồ muốn hòa âm phối khí sao cũng xong và có thể làm rất nhanh.  May thì hay, nhưng nhiều khi nghe không có gì đặc biệt cả và có khi còn chói tai nữa.  Duy Cường là một người hòa âm hay, nhưng theo tôi, bài Vết Chim Bay phải dùng hòa âm của Cung Tiến mới đạt! Duy Cường phải đánh vào máy từng phần của các nhạc khí từ tổng phổ ông Cung Tiến cho, để cho vào “synthesizer” và đưa cho các nhạc sĩ chơi phần của họ.

Le Da Xanh
Cung Tiến, Bích Liên, Thu Vàng & Nhóm Thân Hữu Ngàn Khơi. Từ trái: Tín Trần, Lệ Thanh, Thu Vàng, Bích Liên, Cung Tiến, Josee, Wendy Ngô, Thúy Hằng, Kim Liên, Kim Anh; tại Tòa Soạn Việt Báo, Westminster, tháng 12, 2019; Đêm Nhạc Lệ Đá Xanh.

Kết quả nói chung làm hài lòng Cung Tiến. Ông chỉ có một điều không vui lắm là Duy Cường cắt đi một trường canh sau câu “trong tiếng chuông chiều đưa” vì Cường nghĩ là không cần thiết.  Lúc đó tôi cũng nghĩ như Duy Cường vì trường canh này thật ra chỉ là lập lại của trường canh trước, có cắt đi cũng không sao.  Tuy nhiên, sau này, khi hát lại bài này, thì tôi thấy ông Cung Tiến rất có lý.  Trường canh đó tuy là lập lại của trường canh trước, nhưng sự lập lại rất cần thiết như tiếng chuông thường được gõ hơn một lần thì mới có thì giờ lắng sâu vào tâm hồn người nghe được.  Thế mà lúc ấy ông chỉ nhỏ nhẹ hỏi tại sao cắt thôi, chứ không la lối trách móc gì cả. Đó là một thí dụ về sự “khó tính” mà không khó tính của Cung Tiến. Ông để ý từng chi tiết nhỏ nhưng cũng rất thông cảm cho những người trình diễn. 

Sau đó một thời gian, ông có soạn bài Lơ Thơ Tơ Liễu theo một bản chèo cổ, cho giọng hát, thụ cầm và dàn dây, và cho tôi cái hân hạnh được hát lần đầu tiên với Roseville String Ensemble ở Minnesota.  Lần này tôi biết hơn về sự cẩn thận, sự trân trọng âm nhạc của ông.  Ông đưa bài trước cho tôi cả hơn một tháng và nhắc nhở những chi tiết nhất là những đoạn đảo phách phải hát sao cho rõ mà phải tự nhiên.  Bài ông soạn rất kỹ, ghi chú rõ những chỗ lớn nhỏ như thế nào, nhanh chậm ra sao, diễn tả tình cảm gì, v.v.. Bản tổng phổ có đầy đủ các phần của các nhạc cụ nữa.  Nhờ sửa soạn kỹ như thế, khi đến Minnesota, tôi chỉ cần cùng dàn nhạc dượt một lần là có thể trình bày ăn khớp ngay. Không phải chỉ bài này mà bài hát nào ông cũng soạn kỹ như vậy.  Đấy, ông khó tính như thế. Nhưng ông cũng rất chịu khó nghe ý kiến của người hát, và nếu có những chỗ khó khăn người hát cần thay đổi một chút để hát dễ hơn, nếu có lý, ông cũng chấp nhận.


Có lần ông hỏi tôi là tại sao ca sĩ hay hát sai bài Hương Xưa. Tôi đã thưa với ông là vì tiêu chuẩn của ông quá cao.  Thí dụ câu đầu tiên mà ai cũng biết của bài Hương Xưa là “Người ơi, một chiều nắng tơ vàng hiền hòa hồn có mơ xa” chẳng hạn, nếu hát như ông viết và muốn ca sĩ hát đúng mà hay, mà tâm tình, thì không ca sĩ nào có đủ dài hơi để hát cả! Vì vậy phải lấy hơi hay đổi nhịp đi để dễ hát hơn.  Thế là ông cười và thông cảm.  Nhưng có một điều mà ông không thông cảm là hát sai cao độ.  Khi viết nhạc, ông rất để ý đến cao độ của từng nốt một. Khi sử dụng một nốt nào đó, ông đều có dụng ý cả, nên nếu nghe hát sai, ông thấy rất khó chịu.  Mà không trách ông được! Theo ông, tuy ca sĩ cũng có quyền sáng tạo, nhưng vẫn phải trong khuôn khổ và phải biết và tôn trọng những điểm thiết yếu của bản nhạc.  Ông còn soạn cả những nốt láy của từng câu từng chữ.  Và phải công nhận là nếu hát láy đúng như những nốt ông viết thì hay hơn là những nốt ca sĩ tự chế nhiều. Ông lại viết hòa âm cho từng bài cho thích hợp. Theo thiển ý của tôi, hòa âm của Cung Tiến nghe rất hay và rất hòa hợp với giai điệu bài hát. 

Ông cũng rất cẩn thận trong việc dùng chữ trong bài hát. Ca từ của ông tuyệt đẹp và có dụng ý. Trong những bài thơ phổ nhạc, ông cố gắng giữ càng nhiều chữ của thi sĩ càng tốt, chỉ thay đổi vì sự đòi hỏi vế âm diệu và tiết tấu của bản nhạc thôi.  Ông không thay đổi lời ca một khi đã in ra, trừ vài trường hợp đặc biệt mà tôi được biết.

Một trường hợp là bài Hoàng Hạc Lâu. Trong bài hát có câu “Gần xa chiều xuống nào quê quán…” nhưng trong bài thơ của Vũ Hoàng Chương mà ông lấy để phổ nhạc, câu này lại là ”Gần xa chiều xuống đâu quê quán…”! Tôi có hỏi ông về việc này, thì ông bảo ngay là phải đổi lời của câu này thành ”Gần xa chiều xuống nào đâu quê quán…”để gần với chữ của Vũ Hoàng Chương hơn. Chữ nào có hai nốt nhạc, nên khi đổi thành hai chữ nào đâu rất dễ dàng và không đổi nhạc.

Một trường hợp đổi lời nữa là trong bài Mắt Biếc. Câu “Đâu ngờ phút giây huy hoàng, phút giây khổ đau!” trong những ấn bản đầu đã được đổi thành “Không tàn phút giây huy hoàng, không phút giây khổ đau” trong ấn bản mới nhất do Kim Lũ xuất bản năm 2010.  Bài này ông viết tặng Josee, người bạn đời của ông, người mà ngay trước khi nhắm mắt sang thế giới khác, ông đã nói trong vòng tay bà: “Em là người yêu suốt đời của anh!” Tôi đã hỏi ông về việc này và ông đã cho biết sự thay đổi lời bài hát này phản ảnh tình yêu hạnh phúc của hai ông bà. 

Có người cũng phàn nàn với tôi là Cung Tiến chối bỏ những bài hát ông làm lúc ban đầu như Thu Vàng, Hoài Cảm hay Hương Xưa là những bản nhạc được nhiều người biết đến và yêu quý nhất.  Thật ra ông không hề chối bỏ chúng.  Nhưng đối với ông, những bản nhạc đó là những bước đầu trong sự trưởng thành về âm nhạc của ông, và ông có buồn khi nhiều người cho rằng đó là tiêu biểu cho sự nghiệp âm nhạc của ông. Qua những lần trò chuyện với ông, tôi biết là ông mong muốn những tác phẩm sau này của ông được giới thưởng ngoạn biết tới hơn. Tôi thông cảm với ông nhiều vì khi mình có cái gì tốt đẹp muốn chia sẻ với mọi người mà người ta chỉ thích cái ít đẹp hơn thì ai mà chẳng buồn.  Có điều, sự hiểu biết về nhạc và trình độ thẩm âm của ông quá cao so với đa số quần chúng, do đó nhạc của ông thường bị coi là quá bác học và khó thưởng thức.  Thôi thì vài mươi năm hay vài trăm năm nữa sẽ có nhiều người tri âm Cung Tiến hơn!
 
Ông đã ra đi êm ái như một vết chim bay. Cầu mong ông được yên nghỉ. 

Bích Liên
 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.