Hôm nay,  

Cái “deck” nhà tôi

20/06/202210:00:00(Xem: 4337)

Tạp bút
 homepage_products_deck

Sáng sớm nay, khi tỉnh dậy, công việc đầu tiên tôi nghĩ tới là phải cọ sạch cái “deck” (sàn gỗ) sau nhà. Bước ra vườn, trời hôm nay đẹp quá. Thời tiết San Jose đang đổi sang lành lạnh, cái lành lạnh của mùa thu. Nhìn quanh vườn, chẳng thấy thu đâu, chẳng thấy lá vàng bay mà tôi chỉ thấy cô hàng xóm, cái cô gầy đét cuối ngõ, đang vén quần, trốn mẹ, nhẩy hàng rào, dáo dác tìm tôi.

 

Nhắc đến cô hàng xóm này, tôi như chợt nghĩ tới một điều gì, một điều có liên quan đến cái deck nhà tôi. Tôi xin cố nhớ để kể các anh nghe. Một hôm đẹp trời, không phải cái đẹp man mát của mùa thu với lá vàng rực rỡ mà là cái đẹp "nóng và bỏng" của mùa hè oi bức. Tôi cong lưng mài cái deck sau nhà với chiếc máy mài (sander) vừa mua với giá 49,99 đô-la ở Home Depot. Dưới cái nắng gay gắt, nhiệt độ tròm trèm 100 độ F, tôi cứ phải cong lưng mài riết, mài và sơn cái deck cho kịp theo lời vợ dặn. Tôi còn nhớ, hôm đó, khi tôi đang mài deck thì "kính koong". Tiếng chuông ngoài cửa vừa dứt đã nghe thấy những bước chân nặng nề bước vào nhà, hai quan ngài (bạn đồng niên) hàng xóm ngõ bên, đang lọm khọm sang chơi. Tôi định buông chiếc máy mài vào tiếp hai ngài thì hai ngài đã vội xua tay:

 

– Tiếp tục làm! Tiếp tục làm!

 

Tôi còn dở tay, người đầy những bụi gỗ nên đành để hai ngài ngồi chơi với nhau. Hai ngài “self serve” nước uống lẫn "enjoy" TV với trận đấu bóng đá. Tôi lại tiếp tục cong lưng và cong lưng làm việc dưới cái nắng thiêu người. Chợt một ngài bước ra deck, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống cái deck, nói một chữ duy nhất “Đếch!” rồi lẳng lặng quay vào.

 

Tôi hiểu ý ngài là muốn ra một đề tài cho tôi để viết bài gửi đến anh em trong làng, ngoài ngõ khu mình. Tôi đếch hiểu ý ngài, "đếch" tiếng Việt hay "deck" tiếng Mỹ đây. Cả hai phát âm đều là "đếch" cả. Ngài khó hiểu như đức Phật, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất mà phán: Thiên thượng thiên hạ/ Duy ngã độc tôn/ Sinh tử vô lượng/ Ư kim tận hỉ. (Tôi hiểu nôm na và rất lờ mờ là: Trên trời, dưới đất. Tất cả do tâm tạo ra. Vì cái lầm có trên có dưới nên mới lọt vòng sinh tử mãi mãi. Và vì nhận biết được như vậy nên từ nay trở đi ta vui sướng vô cùng.)

 

"Đếch" tiếng Việt thì quả thật đây là một tiếng thuộc ngôn ngữ, một thứ ngôn ngữ bất cứ anh Tây nào học tiếng Việt cũng phải "hộc máu mồm". "Đếch" là một trong những chữ có chức năng thật đa dạng làm sao! Nó đa dạng như những “tiếng cười " của dân ta vậy. “Đếch” còn là một từ ngữ có tính ngoại giao lẫn văn hoá cao của ngôn ngữ bình dân ta nữa. Này nhé:

 

-- Tiếng "đếch" mang ý nghĩa phủ định: Đếch có, đếch được, đếch phải.

 

-- Tiếng "đếch" mang ý nghĩa phản kháng. Trong trường hợp này đôi khi tiếng "đếch" mang đầy ý nghĩa của uy quyền nên những đại danh từ dùng với nó thường có danh xưng là "ông" hay "bà": Ông đếch làm, bà đếch học.

 

-- Tiếng "đếch" mang ý nghĩa thách thức: Làm đếch gì được ông!

 

-- Tiếng "đếch" mang ý nghĩa chê bai: Làm ăn chẳng ra cái đếch gì cả.

 

-- Tiếng "đếch" mang ý nghĩa nghi vấn: Thế là cái đếch gì?

 

-- Tiếng "đếch" mang ý nghĩa xuề xòa, sao cũng được: Thôi! cái đếch gì cũng được, đem ra đây nhậu.

 

-- Tiếng "đếch" mang ý nghĩa số nhiều lẫn bao gồm: Ôi! Cô đếch nào còn trẻ mà chẳng đẹp.

 

-- Tiếng "đếch" mang ý nghĩa của thán tán từ: Ngon đếch chịu được!

 

"Đếch" thì giầu có lắm, cứ ngồi nghĩ thêm một tý nữa là ta sẽ có thêm một loạt trường hợp để dùng với chữ "đếch" này.

 

Chữ "đếch" có đứa em song sinh, đó là chữ "cóc". Ta cứ nhập nhằng thay chữ  "đếch" này bằng chữ "cóc" thì ta cũng khó nhận ra được sự khác biệt của chúng. Nhưng cái âm thanh "cóc" nó thanh tao hơn "đếch" nên đành nhận phận làm em. Có những chữ đứng bậc cha chú của “đếch” nhưng tôi xin miễn kể ra đây vì cái âm thanh “eo éo” của nó.

 

Đấy là chữ "đếch" tiếng Việt, thế nếu là chữ "Deck" tiếng Mỹ thì sao nhỉ? Cái này mới thật là khó. “Deck” thì có cái đếch gì đâu mà viết, mà kể lể. Cứ xếp những thanh gỗ dài và hẹp lại với nhau là thành cái "deck" rồi, nó nghèo nàn ý nghĩa như cái nghèo của kinh tế Mỹ hôm nay, nợ như chúa Trổm. "Bí" thế này thì chỉ còn cách kêu cứu với cô hàng xóm. Tôi gọi toáng:

 

– Đẹt ơi, có nhà không, sang với anh một tý, một tý thôi.

 

Cô Đẹt đáp vọng sang:

 

– Em sang ngay, làm cái đếch gì mà gọi nhắng lên thế? Sao anh không gọi con Mộng mập đầu ngõ.

 

Nói vậy nhưng Đẹt vẫn lén nhẩy hàng rào chạy sang. Dưới trời nắng chang chang, Đẹt thấy tôi cong lưng đẩy cái máy mài, đứng cười cười rồi bẽn lẽn nhõng nhẽo đu đưa chiếc thân gầy ốm tong teo hỏi:

 

– Anh đang làm cái đếch gì vậy?

 

Đang lúc nóng gần chết nên dễ sinh ra cáu kỉnh, tôi định hỏi lại:

 

– Đếch có mắt à, còn phải hỏi?

 

May mà tôi kìm lại được ngay.

 

Cái cô Đẹt hàng xóm nhà tôi tên thật là Liễu, một thứ liễu yếu đào tơ, một thứ liễu "diet" (nhịn ăn cho gầy vì tưởng gầy là đẹp) nên chỉ còn có da bọc lấy xương. Ông hàng xóm đặt tên cho cô là Đẹt, ông bịa giải thích “đẹt” là tiếng Việt cổ ngày xưa, "đẹt" nghĩa là "đẹp", người ta nói trẹo ra thành “đẹt” như thế cho sang, cho quý phái. Liễu nghe thế nên cứ bắt tôi phải gọi cô là Đẹt. Cô chẳng thể hiểu nổi cái ngôn ngữ phong phú của dân ta nên tôi thôi, đành phải gọi cô là Đẹt vậy.

 

Đẹt chợt lên tiếng:

 

– Anh gọi Đẹt sang làm giúp hả?

 

Tôi đáp:

 

– Không, gọi em sang để nói chuyện "phịa" (nói dóc) về cái “deck” thôi, anh đang “bí”.

 

– Thôi cho em làm đi, em thích làm cơ. Cô lắc lư chiếc thân gầy gò, nhõng nhẽo năn nỉ.

 

– Thế em có kinh nghiệm gì về mài không?

 

– Có, có! Em biết mài từ khi em còn ở trong bụng mẹ cơ.

 

–  Cái gì! Đẹt nói cái gì!?

 

– Mẹ em nói từ khi em còn ở trong bụng Mẹ, Mẹ đã phải mài nhiều lắm, mài ngày không đủ, tranh thủ mài đêm.

 

Tôi trợn tròn mắt hỏi:

 

– Mẹ em mài cái gì mà ghê thế?

 

Cô trả lời ngay:

 

– Mẹ em nói "mài đũng quần" ở trường học, ngày đi học trường công, tối học trường tư. Anh cho em mài đi!

 

Tôi bật cười với ý nghĩ vô tư của Đẹt. Tôi đưa cái máy mài cho cô, hỏi thêm:

 

–  Mẹ em hôm nay đi đâu mà để em trốn sang anh vậy?

 

– Mẹ em đi "đĩ ngựa".

 

– Cái gì? Tôi giật giọng hỏi.

 

Cô lập lại:

 

– Bạn mẹ em chết, người ta chôn bà ấy ở "đĩ ngựa". Mẹ em đi đưa.

 

– Trời ơi! "Nghĩa địa" chứ không phải là "đĩ ngựa".

 

– Ai mà biết, mỗi khi em lén đi chơi khuya về, mẹ em trông thấy lại xỉa xói mắng: "Tao chôn mày! Đĩ ngựa!"

 

– À ra thế! Tôi lẩm bẩm một mình.

 

Đẹt chuẩn bị làm, cô quỳ hai chân, chống hai tay, chổng mông lên trời đánh vật với cái máy mài. Thân thể cô, từ xương sườn, xương hông đến xương chậu cứ như long lay xiêu vẹo trong bộ quần áo trắng mỏng, thùng thình rộng cổ của cô mỗi khi cô xoa tay mài. Cô mài đến đâu, bụi gỗ bay đến đấy, xoàn xoạt ngấu nghiến những mảng gỗ mà cô vừa xoa tay qua. Tôi chợt nghĩ đến câu của các cụ bà ngày xưa:

 

Mẹ ơi con chỉ lấy anh thợ bào

Khom lưng anh đẩy cái nào cũng... (đáng) "yêu".

 

Nhìn cô hàng xóm nhà tôi, tôi nghĩ, chắc trong trường hợp này các cụ ông nhà ta xưa hẳn phải có câu:

 

Mẹ ơi, con chẳng (dám) lấy cô thợ mài,

Đưa tay xoa nhẹ (dẫu có) anh tài cũng ..."tiêu".

 

Ô kìa kìa! Ô kìa kìa! (bài hát). Vô tình tôi nhìn thấy qua "khung cửa mùa thu" rộng thùng thình theo kiểu “cổ áo bà Nhu”, cô có cái rốn lồi. Mọi thứ thì bé chỉ có cái rốn lồi là to. Với cái nhìn thanh khiết của một nhà thám tử, tôi biết được "nguồn cội" của cô, cô được sinh ra tại một nơi, nơi ấy người ta cắt rốn trẻ sơ sinh bằng miếng nứa miếng tre.

 

Nghe tiếng máy mài chạy ồn ào, chắc hai ngài tỉnh giấc lò dò ra góp chuyện. Tôi giới thiệu hai ngài với cô. Cô chào ngài thứ nhất một cách kính cẩn:

 

– Cháu chào Bác ạ!

 

Cô quay sang chào ngài thứ nhì, cũng không kém phần lễ phép:

 

– Cháu chào Chú ạ!

 

Đẹt ghé tai tôi nói nhỏ:

 

– Sao anh có bạn già thế, tóc bạc hết rồi.

 

Nói xong cô nheo mắt mỉm cười hóm hỉnh, bẽn lẽn bỏ ra về. Vẫn động tác nhanh nhẹn quen thuộc, cô vén quần, nhầy vù qua hàng rào nhà tôi rồi mất dạng. Hai ngài ngơ ngác nhìn theo.

Tôi nói với các ngài là, có 5 đô-la một lọ thuốc nhuộm tóc, tiếc gì mà chẳng mua về mà nhuộm tóc đi như tôi. Rẻ thôi, chỉ tốn 5 đô-la thôi ta có được tuổi thanh xuân. Nói đến đây tôi lại nhớ tới một người bạn, hung hăng khoe nhặng cả lên về cái "sung sức" của mình. Sự oai hùng ấy quả thật chỉ đáng giá 10 đô, 10 đô-la một viên. Có bảo hiểm nhà nước (medicare) thì free (cho không).

 

Thôi, không dông dài nữa, tôi phải đi làm việc đây, nhà tôi sắp dậy rồi. Nghĩ đến nhà tôi, tôi lại nhớ đến những người đàn bà ở Afghanistan. Kể từ ngày người Tây phương mang dân chủ tới đây, người đàn bà được giải phóng như nào là không phải che mặt, nào là đàn bà luôn đi trước (lady first), đàn ông luôn đi sau, nhưng tôi nghe đâu ở Afghanistan lúc này có lắm bãi mìn.

 

Tôi liếc vội vào trong nhà, sáng nay nhà tôi dậy sớm hơn thường lệ, nàng tất tả lo bếp núc, đánh vật với nồi xôi lúa (xôi bắp) thật to. Cứ thấy nàng hì hục, ì ạch khuân nồi xôi, tôi mới thấy rõ ra một điều làm tôi ái ngại và thương. Sức khoẻ nàng năm nay kém hơn năm ngoái vì cái tuổi thời gian cứ mỗi ngày một chồng chất lên cao. Thời giờ của nàng trước đây dành cho chồng, cho con, rồi nay lại dành thêm cho cháu. Hình như nàng không còn có thời giờ nào dành cho mình nữa thì phải. Thông thường tôi không nhận ra điều đó, chỉ trừ khi lòng tôi chợt thấy “từ bi bất ngờ” (TCS) như lúc này.

 

Tôi cứ cắm cúi cọ cho sạch cái “deck”. Và tôi biết ở cuối vườn, cô hàng xóm nhà tôi đương phụng phịu, giậm chân, ngúng nguẩy bỏ ra về. Tôi lờ. Cười.

 

Nguyễn Giụ Hùng

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.