Hôm nay,  

Huyết lạc hoa

6/26/202220:59:00(View: 3663)

Truyện ngắn

huyethoa

 

Mùa xuân Nhâm Tý, thành Hạc Hoa tưng bừng khai hội, thiên hạ dập dìu xe ngựa kéo về. Tiếng đồn hội hoa đã lừng danh, người ta bảo rằng ở đấy không thiếu bất cứ loại hoa nào trên thế gian này, thậm chí có những loài mà chưa từng xuất hiện ở bất cứ nơi đâu. Năm nay họ lại kháo nhau có một loài hoa lạ, một loài hoa vừa mới xuất hiện đã làm cho vương tôn công tử, má đào thể nữ, hiệp khách hào hoa cho chí xuất trần đại sĩ cũng mê mẩn tâm thần. Ai ai cũng nói về loài hoa này nhưng thật tình chẳng có mấy ai đã từng tận mắt thấy, mặc dù vậy họ cứ xuýt xoa khen không tiếc lời, nào là cánh mỏng mượt mà như mẫu đơn, hương nhẹ nhàng phảng phất như phấn son khuê phòng, nhụy mong manh như yểu điệu như tơ… Người ta chỉ biết loài hoa ấy do chính tay công tử Đoan Thanh Tú trồng trên núi Chung Dương Xuân.

 

Thành Hạc Hoa xưa nay vốn là nơi kỳ sơn vĩ thủy, phong cảnh hữu tình, cư dân thuần lương hậu đức, nếp sống êm đềm, nhàn hạ nhưng không kém phần sung túc. Dường như ngày hội hoa đã phá vỡ khung cảnh thanh bình ở đây. Đường xá dập dìu xe ngựa của các đại gia, từng đoàn nam thanh nữ tú tha thướt áo quần trẩy hội, giới bình dân cũng tấp nập du xuân. Người nào cũng háo hức hy vọng sẽ tận mắt thấy được loài hoa lạ mà bấy lâu nay hằng ao ước. Không ít kẻ tỏ ý hoài nghi, thậm chí còn cả quyết đây là trò câu khách của giới kinh doanh phạn gia tửu điếm, mặc dù hoài nghi nhưng tánh hiếu kỳ vẫn thôi thúc bọn họ kéo về thành Hạc Hoa.

 

*

 

Phạn điếm Dương Xuân đầy ắp thực khách, thanh có trọc có, nhiều kẻ tỏ vẻ nhiều tiền lắm của, thái độ ngông nghênh chẳng coi ai ra gì. Đặc biệt có một nhóm thực khách khá thô lỗ, bọn họ có vẻ có tiền và có thế lực, bao hết những chỗ ngồi đẹp nhất để ngắm phố phường. Bọn họ ăn nhậu nhồm nhoàm liên tục nâng bát hò dô. Bọn họ cải trang như khách du nhưng nhiều người nhận ra tay Nguyễn Quan, một tổng đàn chủ xứ Bắc Môn, thoạt nhìn thì thấy y nho nhã nhưng qua giao tiếp thì mới biết y cũng chỉ là hạng thất phu, thô tháo, dưới trướng y có nhiều bọn nha trảo sài lang. Đặc biệt là tên Nguyễn Tòng, một tên võ biền hồ đồ, hung hăng nhưng kém mưu lược. Sở dĩ tổng đàn chủ dùng hắn cũng chính vì những đặc điểm của hắn ta, võ biền dễ sai xử và dễ thao túng hơn là dùng bọn nho sinh. Cả bọn ăn nhậu đã đời, cuộc rượu chừng như càng lúc càng cao hứng. Tổng đàn chủ nâng bát rượu:

 

– Mỗ nghe danh hương sắc huyết lạc hoa lâu nay nên sanh lòng ái mộ, vì vậy mà bỏ công đến Hạc Hoa thành. Mỗ sẽ mua cho bằng được với bất cứ giá nào.

 

Bọn đàn em reo hò hưởng ứng rần rật, tiếng chúc tụng, lời xu nịnh tâng bốc… dâng cao theo hơi men làm ồn ào cả phạn điếm, sau khi no say cả bọn lên đường kéo đến hoa viên. Bọn chúng khệnh khạng nghênh ngang giữa đường trêu chọc đàn bà con gái, tùy tiện bẻ cành hái hoa trong vườn, trông bọn chúng như một đám thổ phỉ, khách du tránh né dạt cả ra, tuy bất bình nhưng không ai dám nói gì. Mọi người sợ phiền lụy vào mình. Quan trấn thủ thành và những viên chức trông coi vườn hoa cũng bức bối lắm nhưng không dám ngăn cản chúng, đảo vài vòng trong vườn mà chẳng thấy huyết lạc hoa đâu cả, tổng đàn chủ khinh khỉnh:

 

– Hoa thế này mà bảo là hoa xuân à? Có gì đẹp đâu? Không bằng hoa dại trong vườn nhà ta! Chúng mày ba hoa khoác lác để gạt ông à? huyết lạc hoa đâu sao không mang ra cho ta thưởng lãm?

 

Quan trấn thủ thành bất bình nhưng cố giằn lòng nhẫn nại:

 

– Thưa tổng đàn chủ, huyết lạc hoa là có thật, hương sắc không loài hoa nào sánh được, chính mắt hạ quan đươc thấy, có điều du sĩ Đoan Thanh Tú nhất định không chịu đem hoa đến hội xuân.

 

– Thế hiện giờ huyết lạc hoa ở đâu?

 

– Trên núi Chung Dương Xuân

 

– Núi cách đây bao xa?

 

– Ngoài thành Hạc Hoa, chỉ cách mươi dặm đàng.

 

– Được rồi, mỗ sẽ lên núi Chung Dương Xuân, mỗ đã muốn thì phải được!

 

Nói xong tổng đàn chủ kéo lũ lâu la ra cửa thành dò đường để lên núi tìm hoa, bọn chúng đi rồi trả lại sự tươi mát bình yên vốn có của vườn xuân.

 

*

 

Chung Dương Xuân vốn không cao lắm, khí hậu ôn hòa, quanh năm cây cối xanh tươi, có đủ kỳ hoa dị thảo. Du sĩ Đoan Thanh Tú đến đây tu tiên đã mười mấy năm rồi, chàng vốn là người Hoa Diêu Châu, một học sinh xuất sắc, đọc nhiều kinh sách, giao du rộng rãi, trọng nghĩa khinh tài, đặc biệt có tánh yêu hoa đến độ thiên hạ kháo nhau:” Mộ hoa đệ nhất du tử”. Ngày chàng còn ở trong thành, thừa tự gia tài lớn của cha mẹ để lại, đem bao nhiêu tiền của để sửa soạn hoa viên, sưu tầm muôn hoa, phải nói ở đây là cả một cung trời hoa nơi hạ giới. Vườn hoa của chàng là đệ nhất hoa viên của thành Hạc Hoa này.

Đoan Thanh Tú khôi ngô tuấn tú, có thể nói là bảnh trai nhất vùng, bạn bè cùng trang lứa đều đã lập gia đình cả rồi, có người đã con cái đủ cả nếp tẻ, riêng chàng thì vẫn mãi sống độc thân phong lưu nhàn hạ. Nhiều nhà khá giả trong thành bắn tiếng gả con gái cho nhưng chàng chỉ cười trừ. Có những cô gái xinh đẹp mê chàng đến độ dạn dĩ tánh tỉnh nhưng chàng cũng làm ngơ cả. Thế rồi một năm kia có đoàn khách buôn từ phương xa ghé qua thành bán tơ. Bọn họ trú ngụ ở phạn điếm Lạc Hương, trong đoàn có một cô gái xinh đẹp kiêu kỳ cùng một gã nho sĩ rất tiêu sái. Tuy cùng đi trong đoàn lái buôn nhưng hai người xem ra chẳng có chút gì là dân buôn bán. Trong khi những người trong đoàn bận rộn bán tơ thì hai người này cứ tản bộ trong thành và hỏi thăm đường tìm đến vườn hoa của Đoan Thanh Tú. Hai người ngắm hoa một lát rồi tìm hỏi tông tích của công tử nay nơi đâu. Người quanh vùng cho biết là Đoan Thanh Tú đã lên Chung Dương Xuân tu tiên mười mấy năm rồi. Ngay lập tức hai người quay về phạn điếm lấy lương thảo và tìm đường lên núi. Trước khi đi hai người giao ước với nhóm khách buôn kia là sau một tuần lễ nếu không thấy quay về thì cứ đi trước. Hai người cứ thế thẳng đường lên Chung Dương Xuân, cảnh vật núi non đẹp lạ thường, không khí trong lành, lá thở chim ca làm cho họ quên cả mệt nhọc. Nỗi niềm ao ước được thấy huyết lạc hoa càng làm cho hai người thêm hứng khởi và tiếp sức cho động lực đi đường. Núi bốn bề bát ngát, nhìn lên mây trời lồng lộng, nhìn xuống thành Hạc Hoa như sa bàn trong lòng bàn tay biết đâu sơn cốc của du sĩ mà tìm, ấy vậy mà họ cứ đi. Thế rồi lòng ngay tâm trực cũng được phỉ nguyền. Cả hai gặp được công tử Đoan thanh Tú ngay bên bờ suối  nhỏ trước của động Vân Thanh.

 

Vị nho sĩ cung tay thủ lễ:

 

– Tôi là khách phương xa, nghe đồn công tử học rộng tài cao, thông kinh quán sử nhưng không chịu thi cử, chỉ ở nhà uống rượu ngắm hoa, nay lên Chung Dương Xuân tu tiên?

 

– Xin đa tạ sự chiếu cố nho huynh, không dám nhận lời, có thể tại hạ được biết quý danh?

 

– Tôi cũng là nho sinh, người Vân Long Châu, vì sinh kế nên theo đoàn khách buôn đi từ nam chí bắc, hãy gọi tôi là Lý Khang. Còn đây là cô nương Hồng Hương, một nương tử xinh đẹp nết na nhưng nghĩa hiệp và khí khái.

 

Cả ba nhìn nhau, dù lần đầu diện kiến nhưng trong lòng dường như có mối hân hoan khởi lên, có lẽ như người đời thường nói:”Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Đoạn Thanh Tú mời cả hai về sơn cốc đối ẩm. Ba người đàm đạo văn chương lưu loát, thi phú phong lưu, chữ nghĩa uyên áo, luận hoa tuyệt thế, Đã thế lại cùng bàn luận về nhân tình thế thái vô cùng hợp tâm hòa ý. Nậm Hoàng Hoa tửu cất mười mấy năm trước nay mới dụng đúng người, đúng thời, hơi men, khí văn làm cho cả ba người cởi mở tấc lòng. Lý Khang hỏi:

 

– Nghe nói công tử ở núi đã mười lăm năm và trồng được giống hoa lạ có phải chăng?

Đoan Thanh Tú cười mỉm, nhìn hai người một thoáng, dường như định lượng hay quán sát tâm của hai vị khách này, đoạn mới từ tốn:

 

– Quả thật đúng thế, núi Chung Dương Xuân có một loài hoa lạ, thiên hạ chưa ai biết đến, năm xưa có một vị đạo sĩ ghé thăm vườn hoa của đệ trong thành, ông ấy tì tì uống rượu mà khộng nói một lời, chỉ đến khi sắp từ giã ra đi thì lấy từ trong tay nải ra một cây con rất lạ và bảo:” Trước thì trồng nó trong vườn, sau này, khi mà cây đã cho hoa thì hãy đem lên núi chớ để ở lại thành”. Đệ vốn đã ngạc nhiên về hành vi của ông ấy, giờ lại thêm món quà và lời khuyên ấy càng thêm hồ nghi, tuy nhiên đệ vẫn ươm trồng ở vườn nhà. Đệ đã dùng hết sức chăm sóc, bao nhiêu tuyệt kỹ trong nghề đem ra mà cũng không làm sao cho cây hoa ấy phát triển, nó cứ èo uột dở sống dở chết. Đệ lại cất công lên núi quan sát tập tánh của những loài hoa nào có dáng loài tương tự và xem xét thổ nhưỡng… Khổ nỗi, không tìm ra một loại cây thứ hai nào giống nó, có lẽ nó là loài độc nhất. Trong lúc lang thang khắp núi, tình cờ phát hiện ở mé vực, nơi khoáng đãng nhất núi Chung Dương Xuân có một loài hoa lạ. Đệ sững sờ trước cái đẹp không sao tả nổi, đến như quốc hoa mẫu đơn còn kém xa. Cánh mỏng nuột nà như má phấn gái xuân thì, búp hoa như nắm tay gái xuân thì, nhụy hoa như râu rồng, đài hoa như bàn tọa tiên nữ…Tự nhiên hồ nghi có phải tiên hoa này với cây hoa mà lão du sĩ tặng là một loài? Lòng đệ mê mẩn muốn đưa cả cụm về nhà, tuy nhiên trong lòng lại giằng xé vì không muốn hại đến hoa. E rằng đem hoa về thì hoa sẽ lụi tàn vì nơi ấy không phải môi trường sống của hoa, chốn thành đô gò bó đầy hơi người, nơi ấy thiếu khoáng đãng khí trời thanh khiết, nước suối tịnh trong. Đệ đành quay về chứ nhất định không dám đem hoa về. Về đến nhà, nhìn cây hoa èo uột mà chợt nhớ đến chuyện thần chủ mẫu đơn năm xưa, lòng thầm nghĩ:” Thử một lần xem sao”. Đệ bèn trích máu đầu ngón tay nhỏ lên cây hoa, ba ngày sau ra thăm vườn thì thấy có một sự lạ, vài chồi non nhú ra, cành lá cây hoa bớt eo sèo ủ rũ. Đệ bèn trích máu lần nữa mớn cho cây, đúng ba ngày nữa thì cây hoa lạ tươi nhuận hẳn lên. Lần thứ ba sau  khi trích máu cho cây hoa, thì cây ra nụ bụ bẫm trên cành, lòng đệ vui không sao tả được, không ngờ chuyện dưỡng hoa bằng huyết của thần chủ mẫu đơn năm xưa lại ứng vào hôm nay. Đệ chăm sóc hoa kỹ càng, không để cho bất cứ côn trùng sâu bọ nào có thể bén mảng đến cây hoa. Đến tuần thứ ba, vào một buổi sớm mai, khi những tia nắng đầu tiên chiếu vào vườn thì nụ hoa lạ kia cũng bắt đầu bung cánh, những cánh hoa như tơ trời, thướt tha lại phơn phớt màu hồng phấn, mùi hương thoang thoảng không giống bất cứ thứ hương nào có ở trên đời mà ta đã  biết. Dáng hoa y hệt loài hoa đã thấy trên núi Chung Dương Xuân. Vườn hoa nhà đệ vốn đẹp có tiếng xưa nay, vậy mà giờ dường như lu mờ trước bông hoa mới lạ này. Đệ lấy ngón tay vân vê hoa mà như cảm nhận làn da mỹ nữ, khi ngón tay đưa vào trong nụ hoa thì lập tức những cánh hoa khép nhẹ, những nhụy hoa quấn hờ vào ngón tay đệ làm cho đệ cảm nhận như được mút bởi miệng người đẹp chứ không phải đóa hoa. Một làn sóng đê mê từ ngón tay lan tỏa khắp châu thân, thần trí sảng khoái, hưng phấn cao độ, Đệ bèn trích một giọt máu ở ngón tay nhỏ vào bông hoa,  đêm ấy lạc vào trong giấc mộng thần tiên, trong cơn mơ hoa đạt thống khoái lạ thường mà cả đời chưa hề trải qua. Ngày hôm sau ra vườn, toàn bộ những đóa hoa trên cây đã biến thành màu đỏ tươi đẹp não nùng, cái đẹp thiên kiều bá mị cuốn hút hồn đệ, toàn bộ dáng cây hoa cứ như thế mỹ nữ hồ ly. Chữ nghĩa văn chương cả đời học được cũng không biết làm sao tả nổi vẻ đẹp của hoa, dĩ nhiên lạ đệ sướng khôn tả, tâm thần bay bổng như mây trắng trên đỉnh Dương Xuân kia, lòng dạ thơ thới hân hoan như nước nước lưng chừng núi, bao nhiêu lông tóc trên người như dựng cả dậy, thậm chí áo mũ đai cân cũng như phất phới theo làn sóng hưng phấn từ trong thân tâm.

 

Lúc bấy giờ cha mẹ đệ đã qua đời, đệ vốn có chí xuất trần từ lâu nên bán cả nhà cửa, sau đó lên núi Chung Dương Xuân để học đạo tu tiên. Đệ hiến hoa viên cho thành Hạc Hoa, chỉ mang theo duy nhất huyết lạc hoa. Sở dĩ đệ mang theo vì lòng yêu không thể rời, thứ nữa e rằng người sau sẽ không biết cách chăm hoa và với kiểu cách lạ thường như thế cũng ngại không tốt cho người trong thành. Lời lão du sĩ năm xưa căn vặn giờ đã thấy thành hiện thực. Hoa đẹp và thơm nhưng cái đẹp này ẩn chứa nhiều ma lực mê hoặc ẩn tàng, đệ tin rằng khi nó tăng dạng đột biến hóa thân dụ hoặc thì không biết người có kiềm chế được hay không, bởi thế nên đệ mang theo bên mình. Loài hoa lạ này nhân gian chưa từng biết đến thì lấy gì có tên, chính đệ đặt cho nó là huyết lạc hoa. Từ ngày về Chung Dương Xuân, huyết lạc hoa dường như thuận cơ thiện phát nên cây hoa tươi tốt lạ thường, những bông hoa to gấp bội, hương bay ngát cả không gian bao la của núi này. Mỗi khi cây trổ hoa, đệ vẫn trích máu tươi mớn cho hoa như ngày còn ở thành Hạc Hoa. Đệ ẩn thân trên núi, huyết lạc hoa cũng mai danh với cây cỏ. Chỉ một số ít người có cơ duyên được thấy huyết lạc hoa ở vườn nhà, kể từ khi đệ mang hoa về núi Chung Dương Xuân thì không còn ai có cơ hội thấy huyết lạc hoa nữa. Ấy thế mà không hiểu sao thiên hạ vẫn biết và tiếng đồn về huyết lạc hoa bay khắp thiên hạ. Nhiều người lên núi Chung Dương Xuân để tìm xem hoa, bọn họ làm huyên náo cả núi non nhưng đệ ẩn mình không gặp và không tiếp bất cứ ai. Duy một trường hợp cá biệt là quan trấn thủ thành Nguyễn Vĩnh Thanh thì đệ có gặp y một lần, y đã nhiều lần lên núi tìm đệ nhưng đệ tránh mặt,  sau khi nghĩ lại  vì y là người có thế lực nhưng có tâm tánh tốt. Y không phải hạng thô lậu, biết trọng nghĩa khinh tài, liên đới nhân luân, cầu thị mỹ thiện, dẫu y chưa đủ khí phách can trường để là hiệp khách nhưng sống trong chốn quan trường vẫn giữ được tâm trong sáng chứ chưa đến nỗi vấy đen, vả lại y cũng là người biết lo cho dân cư trong thành, vì thế đệ mới phá lệ để tiếp y.

 

Huynh và cô nương biết không, khi y được nhìn thấy huyết lạc hoa trông y buồn cười lắm. Y sững sờ đứng nhìn như trời trồng, vẻ mặt đực ra đầy thảng thốt lạc thần, cái khoảnh khắc phiêu hốt như khắc cốt ghi tâm, y như thể lạc khỏi trần gian. Y bảo không biết dùng lời nào để tả vẻ đẹp của hoa, y bảo trần gian không có hoa này. Huyết lạc hoa là hoa của vườn địa đàng. Y còn nói đời y chưa từng chứng kiến sự diễm lệ dụ hoặc nào như thế này cả, thậm chí y còn cả quyết:” Đời người một lần được thấy và ngửi hương huyết lạc hoa kể cũng đủ mãn nguyện, dẫu chết ngay lập tức cũng không có gì hối tiếc”.

 

*

 

Mùng bốn xuân nhâm tý, tổng quản Bắc Môn cùng tùy tùng bộ hạ lên Chung Dương Xuân, bọn chúng kéo đi tiền hô hậu ủng ầm ĩ suốt cung đường. Chung Dương Xuân bạt ngàn cây cỏ, vách đá bờ khe quanh quất, vực sâu hang thẳm lưng chừng chẳng biết lối nào mà lần. Bọn chúng cứ men theo lối mòn của dân sơn cước mà đi, chốc chốc cả bọn dừng lại ngó trước nhìn sau, lối chúng đi qua cây gãy cỏ rạp, chim chóc thú rừng cũng im hơi lặng tiếng. Bọn chúng đi từ lúc trời vừa tảng sáng cho đến tận lúc bóng xế mà vẫn chẳng tìm ra được sơn cốc của Đan Thanh Tú, dĩ nhiên càng không biết huyết lạc hoa ở chốn nào. Lúc mới lên núi, tổng quản Bắc Môn hùng hổ quyết phải chiếm đoạt cho bằng được huyết lạc hoa, thậm chí sẵn sàng giết người để cướp hoa, xưa nay quen thói ngông cuồng là vậy, nào ngờ giờ phải bẽ bàng xuống núi về tay không. Y tuyên bố:

 

– Huyết lạc hoa là trò lường gạt, làm gì có thứ hoa ấy trên đời này!

 

Dân chúng thành Hạc Hoa nhìn bọn chúng thiểu não cuốn cờ thất thểu quay về mà cười bảo nhau:

 

– Huyết lạc hoa đâu phải muốn là có!

 

Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 06/22)

 

 

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.