Hôm nay,  

Khi Loài Chim Thôi Hót

7/1/202200:00:00(View: 1949)


Ông già vừa bới rác vừa chúm môi hót như chim. Tiếng hót líu lo thắp lên giữa không gian xám ngoắt cái không khí mùa xuân rực rỡ. Thằng bé cùng lũ trẻ theo ông già vào bới đống rác trong chợ, lượm những củ khoai sùng, những miếng sắn sượng, miếng đưa hấu ôi, cùi bắp non lởm chởm những hột sần sượng, lá cải sâu ăn lỗ chỗ, héo quay héo quắt... rồi tranh nhau bỏ vào bọc ny lông cho ông già.

Thằng bé nhìn ổ kiến lửa dưới chân, “Coi chừng tụi bay ơi, kiến lửa đấy!”

Lũ bạn lau nhau không để ý đến câu thằng bé nói. Nó quay qua ông già, bắt gặp ông mới nhét vội miếng dưa hấu vào miệng, rồi phun vội ra và cuống cuồng đập, vỗ, chà những con kiến đỏ bu đầy trên mặt. Thằng bé chạy đến phụ ông phủi những con kiến chạy ngang chạy dọc trên nếp da mặt nhăn nheo. Những con ruồi xanh bay túa lên từ đống rác khi lũ trẻ đi ngang qua. Mùi tanh bốc lên từ đống vẩy cá làm thằng bé chun mũi lại.

Phủi kiến cho ông già xong, thằng bé hỏi, “Ông đói lắm à?”

Ông già lặng thinh nhìn thằng bé. Nó hiểu, dù những nếp nhăn vẫn xếp như tấm vải nhàu trên trán ông già; dù không một chút vui, một chút buồn nào lách được ra khỏi những vết cắt ấy của thời gian. Bỗng dưng thằng bé nghĩ đến chuyện lấy trộm đồ ăn đem cho ông già. Nó hình dung nồi cá kho quắt queo trên nóc trạn. Mẹ nó giấu trên ấy. Chó treo, mèo đậy. Các cụ vẫn dạy thế. Vừa để trên cao vừa đậy nắp vung kỹ, là không sợ cả chó lẫn mèo.

“Ông đem mấy cái này,” thằng bé chỉ vào cái bọc nhớp nhúa những thức ăn thừa nồng một mùi chua vữa, “Về cho ai vậy?”

“Về cho nhân gian đoạ đày!”

A, lâu lắm mới nghe được câu nói của ông già. Nhưng câu nói ấy lại làm thằng bé ngẩn ngơ. Đi theo ông già nó hết nhẩy từ ngẩn ngơ này đến ngẩn ngơ khác. Chả hiểu ông già nói gì, nhưng thôi, bỏ chuyện đó đi. Thằng bé ngước mặt, gạ, “Cháu đi theo được không?”

Ông già lườm thằng bé bằng con mắt vằn vện dọc ngang những gân máu đỏ, rồi lừ đừ cắn một miếng vỏ dưa hấu xanh. Tiếng vỏ dưa vỡ dòn rau ráu. Chợt ông già ngưng nhai, hai con mắt nhăn nheo túm lại, cái miệng suýt soa. Cái bực bội lẩn khuất trong giọng nói khao khao, “Bà nó, cái răng đau!”
Thằng bé hiểu cái đau của những chiếc răng sâu. Cái nhức nhối luồn từ xương luồn ra chân chiếc răng đau, siết vòng quanh đầu, xoáy vào những tuyến nước mắt, vắt ra những giọt nước mắt khô. Nó toan hỏi về cái răng đau của ông già nhưng một con châu chấu cánh tím bay vù qua mặt nó. Con dế nào đó nỉ non trong bụi cỏ. Thằng bé quên ngay ông già tóc bạc cùng chiếc răng đau.

Nó loay hoay đuổi theo con dế nhỏ luồn lách dưới đám cỏ xanh ngắt dưới chân, nhưng con mắt vẫn ngó chừng ông già.

Ăn qua quắt xong, ông già ngước mặt nhìn mây trời. Rồi ông hắng giọng. Một bàn tay xương xẩu vuốt cái bụng nhăn nheo hở hang dưới lớp vải mục. Cặp môi khô sần sùi chúm lại. Lũ trẻ con ăn mặc xốc xếch, cả những đứa mũi rãi lòng thòng cũng chợt lao xao. Thằng bé bỏ rơi con dế trong bụi cỏ, vạch đám trẻ con, bước đến sát bên ông, như thể nó hơn những đứa bé khác ở chỗ máu mủ, ruột thịt. Tất cả bu quanh ông già. Ông già lẳng lặng huýt sáo. Tiếng chim hót véo von vọng ra từ đôi môi nứt nẻ như bờ ruộng cạn. Tiếng hót lên bổng, xuống trầm. Tiếng hót của vô số loài chim gom lại để đón chào mùa xuân.

Một con chó ghẻ đỏ lòm từng mảng thịt trên lưng rỉ nước vàng sục sạo tìm bới đống rác. Thằng bé nhổ nước miếng, ghê tởm, rồi lại quay ngoắt đi theo cái lôi cuốn mê hoặc của tiếng chim hót véo von. Con chim nào đó trên cành líu lo hót theo.

Cả một bầu trời phủ rợp bóng chim trong trí tưởng tượng của thằng bé. Mùa xuân đã về. Chỉ một mình ông già mang được mùa xuân về với thôn xóm hiền hòa. Xong, ông già ngước nhìn bầu trời đầy mây xám. Gió hiu hiu vờn những sợi tóc ngả màu xám tro. Ông già dợm chân, sắp sửa bước đi.

“Nhân gian đọa đày ở đâu vậy ông?” Thằng bé gạt những đứa bạn, vừa lẵng nhẵng bước theo ông già, vừa lau nhau hỏi.

Ông già lại lườm thằng bé rồi lặng lẽ ngồi thụp xuống bên một đống rác nhầy nhụa máu me, vần vũ lũ ruồi xanh. Hai bàn tay khẳng khiu ông già vục vào đống nhầy nhụa ấy, gom một nắm đầy những đầu cá lổn nhổn, lá rau sâu, những cùi bắp, bẹ chuối non... tuồn đầy vào cái bao ny lông xám xịt. Xong việc, ông nặng nề đứng dậy và lầm lũi bước đi. Thằng bé lủi thủi bước theo.

Tấu khúc của loài chim đã kết thúc. Lũ trẻ biết rõ như thế và chúng tản mát như những con chó hoang quay đầu trở lại, sục sạo, tìm tìm, bới bới đống rác trong chợ đen đặc những ruồi. Chỉ còn một mình thằng bé. Quần đùi ống thấp ống cao, bỏ hở hai đầu gối trầy trụa. Áo ngắn tay có cái mầu không còn thể đặt tên vì cũ kỹ. Thằng bé theo ông già băng qua cánh đồng vắt vẻo những hồ ao soi bóng bầu trời nặng một mầu xám nhạt. Gió hiu hiu vỗ lên mặt thằng bé cái mát mẻ cuối ngày. Con chuồn chuồn ngô cánh tím to bằng ngón tay cái chờn vờn trên chiếc bông súng biếc xanh mọc sát lối đi. Thằng bé dừng lại, rón rén bước xuống bờ ruộng. Bờ đất ẩm mát lạnh gan bàn chân. Hai ngón tay mở ra nhắm vào đôi cánh rực rỡ một mầu tím óng ả. Thằng bé hồi hộp nhìn theo chiếc bóng khẳng khiu của ông già phía trước. Con chuồn chuồn ngô đem về cho cắn rốn để biết bơi. Chuồn chuồn có cánh thì bay, có thằng con nít thò tay bắt mày. Cũng may ở đây không có đứa bé nào ong ỏng hát cái câu chết người ấy. Con chuồn chuồn vẫn thảnh thơi ngọ ngoạy cái đầu tròn như hạt đậu. Thằng bé nín thở, mím môi, rón rén, cố thu mình lại, mơ hồ như chiếc bóng. Nhưng con chuồn chuồn bay vút đi ngay khi hai ngón tay vừa sẵn sàng kẹp lại; tưởng chừng như đã chạm được vào đôi cánh lưới mỏng như lớp vải the non.

Thằng bé thở ra. Thua. Thôi thì cho nó sống vậy. Con chuồn chuồn ấy, bắt về cho cắn rốn mấy đứa bạn, cho chúng nó sớm biết bơi, đổi lấy những hòn bi ve đủ mầu, vui sướng biết chừng nào. Vậy mà lại bắt hụt.

Thôi thì chạy theo ông già xem nhân gian đọa đầy của ông ấy là ai vậy!

Thằng bé vừa chạy vừa nhảy, chồm chồm như con bê lúc tung tăng chạy theo vú mẹ. Ông già đang đi về phía những lớp hàng rào kẽm gai dầy đặc. Hai lớp rào kẽm gai mọc lên trên nền đất um tùm cỏ dại. Rải rác đó đây trên lớp kẽm gai nhùng nhằng ấy, gắn lưa thưa những trái lựu đạn không biết thật hay giả. Đó là thế giới riêng. Thế giới bên kia hàng rào kẽm gai. Thế giới âm u, mờ ám của những khuôn mặt chằng chịt vết chém của thời gian và nỗi chịu đựng. Bên trong, lố nhố lũ người rách rưới đang bàn tán xôn xao.

Chờ cho thằng bé đến sát bên, ông già hất hàm, “Nhân gian đọa đày ở trong ấy đấy!”

Ông già nói chuyện với nó. Vậy là ông già thích nó rồi. Từ lúc biết ông tới giờ, thằng bé chưa bao giờ thấy ông già nói chuyện với ai. Cả người lớn lẫn trẻ con. Bọn người rách rưới bên trong hàng rào kẽm gai, túa về phía ông già. Ông già mở cái bọc ny lông. Mùi hôi, mùi chua vữa, mùi khăng khẳng... bao nhiêu thứ mùi tỏa ra, tan vào không gian. Ông già bốc cái cùi ngô ném vòng qua lớp hàng rào cao gần gấp hai chiều cao của ông. Đám người bên trong lao xao đón bắt.

Trò chơi hào hứng. Thằng bé xấn tới, thọc tay vào cái bọc ny lông của ông già. Những ngón tay vục vào đống lầy nhầy tanh tưởi. Nó cắn răng lựa một miếng cùi bắp khác. Nó nhắm một người đàn ông râu ria rậm rạp, quăng vào. Nhưng sức cánh tay trẻ con chỉ quăng được miếng cùi ngô đến được khoảng trống rậm cỏ giữa hai lớp kẽm gai. Những người tù ồ lên tiếc rẻ. Con chó ghẻ luồn lách qua hàng rào kẽm gai tìm cái vật thằng bé vừa mới quăng ra. Một người tù ném cục đá trúng lưng nó. Con vật nhảy chồm lên, hoảng hốt, rồi cuống cuồng cúp đuôi ủng oẳng chạy đi.

Ông già bẹo tai thằng bé bằng những ngón tay nhầy nhụa, máu me, mắng, “Thằng ăn hại! Mày biết ông ấy à?”

“Cháu biết.”

Ông già lầm lì. Thằng bé tiếp, “Ông hiệu trưởng trường cháu.”

Hai mí mắt ông già nhướng lên rồi lại chùng ngay xuống, khép hờ những ánh nhìn tăm tối. Thằng bé nhìn ông già bằng con mắt ngưỡng mộ. Ông ném thật tài tình, và lũ người bên trong hàng rào kẽm gai cũng đón bắt thật khéo. Tiếng cười vui tở mở bên trong. Thằng bé thích thú nhìn những bộ xương lăng xăng, chụp bắt trong trò chơi hào hứng. Thằng bé nhăn mặt nhìn người đàn ông cao lòng khòng nhai ngấu nghiến miếng vỏ dưa hấu xanh. Cách một khoảng hàng rào có hơn chục bước mà tiếng rau ráu nghe dòn tan.

Chợt tiếng hét từ xa vẳng lại. Hai người đàn ông súng ông trên tay, rảo bước về phía hàng rào kẽm gai. Bọn tù tuông chạy và biến ngay vào những dãy nhà cá hộp. Ông già quay đi, lầm lũi bước về con đường ngoằn ngoèo cũ. Từ cặp môi khô nứt, tiếng hót líu lo buông ra, vắt vẻo trong không gian mênh mông, lên tới tận những đám mây mầu xám trên cao. Tiếng hót, tưởng chừng có thể làm tan đi những đám mây u ám, dẫn về một mùa xuân rực rỡ hoa đèn. Chắc hôm nay ông già vui lắm, bởi vì có bao giờ ông làm chim hót trái giờ giấc như thế này đâu.

Thằng bé lại lầm lũi đi theo ông già, cõi lòng mở ra cùng đất trời của những chuyện thần tiên. Ừ ngày xưa có một người đàn ông thổi sáo giỏi và hát rất hay. Chỉ tiếc một điều người đàn ông đó vô cùng xấu trai. Người đàn ông đó tên là Trương Chi. Ông già không thổi sáo như Trương Chi, ông chỉ huýt sáo, nhưng ông làm được tiếng chim hót líu lo. Tiếng hót của ông đến loài chim còn lầm lẫn, đua giọng véo von hót theo. Trương Chi ngày xưa được một người con gái yêu mê say đắm. Ông già này chỉ có lũ trẻ con rách rưới, sống lất lây trên mảnh đất nghèo xác nghèo xơ. Nhiều đứa còn không được cắp sách đến trường, bởi bận phụ giúp cha mẹ, hái rau, bắt ốc. Chắc ông già không phải là ông Trương Chi trong cổ tích.

“Ông tên gì vậy ông?”

“Tao không có tên!” Ông già gầm gừ.

Thằng bé không sợ. Khi ông già lên tiếng, nó biết là lúc đang có tin vui. Nó kỳ kèo, “Ông dạy cháu làm chim hót được không.”

Ông già lườm thằng bé. Cặp mí mắt ông nháy lia. Đó là lúc ông già bối rối. Theo ông già hoài, thằng bé hiểu rõ cái tật dễ thương.

“Nhá ông!”

“Chỉ những con chim mới hiểu được lúc nào nên hót.”

Thằng bé trố mắt nhìn người đàn ông.

“Từ từ.” Ông già trấn an thằng bé. Chắc ông sợ nó buồn.

“Hôm nay ông dạy cháu một bài thôi cũng được.”

“Lộn xộn quá!”

“Chim sẻ được không ông.” Thằng bé vênh mặt lên cho ông già thấy. “Cháu chúm môi như thế này được chưa.”

“Cái miệng mày tham ăn phải biết!” Ông già vừa nói vừa đưa tay bóp môi thằng bé. “Nào thổi thử xem.”

Thằng bé phì một hơi thật mạnh.

“Sai hết! Chỉ có bò mới phì như thế thôi, thằng khỉ! Thổi lại, nhẹ nhàng như gió mới được. Những con chim hót cho đời vui chứ không phải hét cho đời buồn. Hiểu chưa...”

Có tiếng đàn bà réo gọi từ xa. “Tuân ơi, về ăn cơm.”

Thằng bé thấy bóng mẹ nó, nhỏ nhắn thấp thoáng sau những bụi chuối hột lá xanh đu đưa trong gió. Nó gân cổ hét, “Con về liền.”

Ông già lầm lì, “Mày tên Tuân à.”

Thằng bé vừa dợm bước đi, bỗng đứng sựng lại, “Vâng. Còn ông tên gì?”

“Đã bảo là không có tên.”

Trong bữa cơm chiều, mẹ hỏi, “Con đi chơi với ai ngoài trại tù vậy?”

Tuân rụt rè, “Ông già... tóc bạc.”

“Ông già điên phải không?” Giọng mẹ sẳng và đượm chút giận dữ.

“Ông ấy đâu có điên!”

“Không điên mà ăn cá chết ở đống rác ngoài chợ.”

“Ông ấy nhặt cho mấy người tù.”

Mẹ ngần ngừ, “Con phải tránh ông ấy cho xa.”

“Sao vậy?”

“Đừng hỏi quanh.”

“Ông ấy thương trẻ con mà.”

Mẹ Tuân sựng lại một chút, suy nghĩ gì đó, rồi buột miệng, “Ông ấy cùi đấy. Con có thấy cái bà cùi ngoài chợ không?”

“Con thấy ông ấy lành lặn mà.”

“Thấy vậy mà cùi nặng lắm đấy, nhớ tránh ông ấy cho xa.”

“Thật hở mẹ?”

Mẹ tránh tia mắt của Tuân, “Chứ sao, mai kia những ngón tay ông ấy rụng hết cho mà coi.”

Tuân rùng mình, nghĩ đến khuôn mặt sần sùi với cái lỗ trống huyếch, tối mò giữa khuôn mặt người đàn bà cùi thường lê la ngoài chợ. Và nó nghe được, trong trí tưởng tượng, tiếng ruồi vo ve bâu quanh những vết thương lở lói ở vành tai, ở lưng bàn tay, ở những ngón tay sần sùi, trụi lủi. Hình ảnh ông già chập chờn trong trí. Mẹ bảo một ngày nào đó ông già cũng sẽ như thế. Hai mí mắt thằng bé cay cay. Mai kia môi, mũi ông già rụng đi mất, ông làm sao còn hót theo những con chim thường tíu tít trên những ngọn cây bàng, trên những ngọn cây thông, những bờ bụi chuối xanh um trên khắp xóm thôn hiu hắt này.

Thằng bé nghĩ tới thầy hiệu trưởng phía sau hai lớp rào kẽm gai. Nói chuyện ông già tóc bạc, mẹ sẽ mắng hoài, đổi qua chuyện thầy hiệu trưởng vậy. “Sao thầy hiệu trưởng cũng phải ở tù vậy mẹ?”

Người mẹ lắc đầu như xua vội những ý nghĩ tối ám trong đầu. “Mẹ không biết.”

“Hèn gì tên trường con cũng bị đổi luôn.”

“Lo ăn cho xong đi!” Mẹ thằng bé mắng át đi những thắc mắc của con.

Đêm. Không nghe tiếng chim hót. Lần đầu tiên đêm vắng lặng âm u. Chỉ có tiếng côn trùng râm ran, tiếng ếch nhái ồm ộp. Thiếu đi tiếng loài chim ban ngày mà chuyên hót về đêm ấy, thằng bé trằn trọc. Thường khi, chỉ cần lên giường, làm dấu thầm thĩ đọc kinh xong, nằm xuống, lăn qua lăn lại hai lần là thằng bé nghe tiếng chim hót líu lo. Nó hình dung ông già chúm đôi môi khô nứt nẻ như bờ ruộng trong cơn hạn hán, thổi ra những tiếng hót trầm bổng. Tiếng hót la đà như con diều chao trong trời chiều lộng gió. Tiếng hót véo von. Tiếng hót ấy dỗ thằng bé trôi lững lờ vào giấc ngủ êm đềm, hạnh phúc. Thằng bé và những đứa bạn của nó. Cả những đứa em của bạn nó; bé tí ti, cũng tương tư tiếng hót của loài chim hiếm quý. Đêm nào loài chim hót muộn, những đứa bé trở trăn, rồi nhừa nhựa quấy mẹ, quấy bà.

Thằng bé chỗi dậy, dở màn lên, chui ra. Tiếng muỗi vo ve nghe như xoáy vào tai làm thằng bé khó chịu. Nó ra bàn rót nước uống. Rồi mở then cửa vòng ra sau bếp, đi tiểu. Đêm mờ mịt phía sau. Bầu trời đen thẫm, đính những vì sao lấp lánh. Thằng bé nhìn về phía trại tù, nơi lố nhố những túp nhà vuông vức choàng lên mình lớp kẽm gai nhùng nhằng những ống lon sét rỉ. Những hình khối tùm hụp tối tăm làm lòng thằng bé vướng chút lo âu. Có con cóc nhảy lộp bộp bên bụi cỏ. Hai con đom đóm chập chờn quyện lấy nhau, lập lòe trong bóng tối. Đêm ma quái dị thường.

Hơi lạnh của đêm vỗ lên da thịt. Thằng bé hít một hơi dài, nhìn vào bóng đêm, nơi dân làng họp chợ. Hình ảnh những sạp gỗ chỏng chơ chồng chất lên nhau. Giữa những ghế bàn trơ trọi ấy, ông già tóc bạc ngủ co quắp nơi nào?

“Tuân!”

Thằng bé giật mình quay ngoắt lại. Tim vỡ tan tành trong lồng ngực. Mẹ đứng trong khung cửa, tay cầm chiếc đèn con. Ánh lửa hạt đậu vàng vọt, leo lét soi lờ mờ khuôn mặt người đàn bà mướt xanh, hằn rõ nét lo âu. Mái tóc rối bung xõa xuống trước ngực.

“Làm gì ngoài đấy vậy?”

Thằng bé lủi thủi bước vào nhà, đứng nép bên cạnh mẹ, “Mẹ ơi, đêm thế này ông già tóc bạc ngủ ở đâu?”

“Khéo vẽ chuyện. Vào ngủ đi, mai còn đi học.”

“Mẹ ơi, ông già đâu có chăn, màn...”

“Thì kệ người ta, việc gì con phải hỏi...”

Thằng bé định một đêm nào đó sẽ mò ra quán chợ, tìm ông già...

Từ đó, ngôi làng vắng đi bóng dáng lẻ loi của ông già tóc bạc. Tiếng chim cũng không còn líu lo quanh ngôi làng nhỏ bé ấy nữa. Lũ trẻ buồn ngẩn ngơ.
Vậy mà một hôm thơ thẩn bắt dế gần hàng rào kẽm gai bao quanh trại giam, tình cờ thằng bé bắt gặp ông già tóc bạc. Vẫn cái áo lính bạc phếch vá nhằng nhịt. Vẫn chiếc quần rách ống cao ống thấp, vẫn hai chân trần xám ngắt cái mầu bùn đất, bụi bặm. Thằng bé quên ngay những con dế đang gáy rúc rích dưới mề cỏ. Thằng bé nhìn đăm đăm những ngón tay sần sùi của ông già, cố đếm xem có ngón nào bị rụng chưa, miệng nó tíu tít, “Ông ơi, ông làm gì trong đó vậy?”

Nhận ra thằng bé, mắt ông già ánh lên cơn vui. Giọng ông thều thào như gió, “Làm lớn lắm.”

Thằng bé bỡ ngỡ không biết nói gì. Phần vì cái giọng đầy hơi gió phều phào khó nghe, phần vì những ngôn từ bí hiểm. Ông già tiếp, cụt ngủn, “Tình báo.” Thấy thằng bé ngơ ngẩn, ông già hất hàm, “Mày biết tình báo là gì không?”

Thằng bé lắc đầu, “Sao ông không làm chim hót nữa vậy, cháu nhớ tiếng chim sơn ca...”

Ông già ngước nhìn bầu trời. Thằng bé ngểnh cổ chăm chú ngó ông. Ông già nhìn lướt những cụm mây bông gòn. Phía bên trong hàng rào kẽm gai nhìn ra, hẳn bầu trời cũng bị cắt thành hàng trăm, ngàn mảnh nhỏ.

Chợt cái giọng khàn khàn mắng mỏ, “Chúng mày lắm chuyện!”

Không buồn bận tâm đến cái giận dỗi trái mùa của ông già, thằng bé nỉ non, “Ông phải làm chim hót, chúng cháu mới ngủ được.”

“Không có con chim nào hót trong lồng đâu, thằng ranh con ạ!” Lâu lắm mới lại nghe được ông già nói thành câu thành kệ hẳn hoi.

“Ông không làm chim hót, em cháu không chịu ngủ, nó quấy mẹ cháu suốt đêm.”

Đôi con mắt đỏ ngầu gân máu của ông già ngước lên nhìn bầu trời xám ngắt đám mây nặng trĩu cơn mưa. Rồi ông nặng nề cúi xuống nhìn thằng bé. Giọng ông phều phào như thiếu hơi, “Về đi, nó lại bắt vào đây bây giờ.”

Ông hất hàm về phía cái tháp canh, nơi có người lính lăm lăm khẩu súng dài đen đúa.

Đôi chân thằng bé dán xuống bờ cỏ xanh. “Để cháu nói mẹ cháu đem đồ thăm nuôi cho ông.”

“Về đi, thằng ranh con. Có muốn ở tù hay không thì bảo!”

Thằng bé lấy hết can đảm, hỏi một câu cuối cùng, “Phải ông bị cùi không vậy?”

Ông già trợn hai con mắt ngoằn ngoèo tia máu đỏ, rồi hai mi mắt nặng nề ấy sụp xuống, như không gánh vác nổi cái xót xa đeo dính trên những nếp nhăn dúm dó. Thằng bé cuống cuồng lủi đi như con chồn nhỏ.

Lâu lắm Tuân mới lại trở về làng cũ. Những cây bàng vẫn như ngày nào. Ba cây thông sần sùi góc cạnh trước nhà vẫn ném xuống những quả thông khô gồ ghề, nhám nhúa. Người đầu tiên mà nó muốn tìm gặp ngay là ông già tóc bạc. Phải quanh quẩn bên hàng rào kẽm gai cả tuần lễ, Tuân mới thấy lại được cái bóng gẫy khúc của ông già.

Ông già nhìn nó đăm đăm, “Mày đấy hả?”

Tuân gật đầu.

“Ông khỏe không vậy?”

Ông già trả lời bằng một câu hỏi, “Mày lại tìm mấy con chim hồi xưa phải không?”

Tuân phải nghiêng đầu lắng nghe mà vẫn không chắc là mình hiểu hết câu nói của ông già tóc bạc. Giọng ông đổi thay quá lắm. Nghe như tiếng gió yếu ớt lùa qua tấm phên che cửa nhà.

“Phải không?”

Tuân yếu ớt gật đầu.

Giọng ông già như gió thoảng, “Bây giờ có muốn cũng chả hót được nữa rồi!”

Tuân trố mắt nhìn ông già. Mấy tháng trời, nó như thành người lớn, còn ông già đã thành người của xứ sở xa xôi nào. Cái lưng còng xuống như thân cây tật nguyền. Cái mặt vêu vao, xương xẩu. Những lóng xương ngón tay ông già run run, chậm chạp đưa lên rờ rẫm cái mặt nhăn nheo. Thằng bé chờ xem ông già sẽ làm gì. Những ngón tay ông già vạch hai bờ của bờ ruộng môi khô hạn, chìa cho thằng bé xem một cái miệng chỉ còn những nướu răng xám xịt.

“Người ta nhổ hết răng rồi, có muốn tao cũng chẳng còn làm chim hót cho ai được nữa. Thằng ranh con ạ! À mà mày tên gì nhỉ?”

“Tuân, cháu tên Tuân.”

“Tao vậy... coi như bỏ đi rồi. Cháu về, tự tập cho mình tiếng hót một loài chim thôi. Một là đủ rồi. Nhân gian đọa đầy cần tiếng chim hót. Về ngay đi. Về đi!” Ông già gằn giọng, “Không khéo tụi nó bắt vào đây bây giờ...”

Trong ánh nắng chiều xiên xiên, Thằng bé thấy cái miệng móm mém của ông già nhóp nhép hệt như cái miệng bà cụ bán rau muống đầu ngõ lúc bỏm bẻm nhai trầu. Đi được một quãng xa, thằng bé dùng dằng đứng lại. Niềm thương cảm đầy ắp trái tim, trào lên hai mí mắt cay nồng. Nó thấy, nhòe nhoẹt trong vạt nắng xiên nghiêng, cái môi dúm dó của ông già phều phào câu dặn dò cuối, “Lúc nào lại, nhặt cho tao ít đầu cá ngoài chợ, cháu nhá!”
 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.