Hôm nay,  

Ngôi nhà

02/07/202209:45:00(Xem: 3964)

Truyện ngắn

DinhCuong_(10)

 

 Nàng đi qua một căn nhà có vườn đằng sau, đẩy cửa bước qua hàng rào trắng bằng gỗ, đi sang khu vườn bên cạnh. Một chiếc áo sơ mi sọc ca-rô nâu đỏ khá mới vắt vẻo trên một móc treo trên hàng rào gỗ như còn ướt hơi sương sớm.

 

Đột nhiên nàng đứng trước một ngôi nhà hai tầng xây góc xéo ở điểm giao giữa hai con đường tráng nhựa, người ta cố tận dụng một khoảng không gian hẹp, một điều hơi lạ lùng trong các thành phố rộng lớn ở Bắc Mỹ, nhưng hoàn toàn có lý ở đây, nơi cuộc sống đắt đỏ nhất và nhà cửa đắt nhất ở đất nước này. Căn nhà xéo dốc xây gạch màu vàng nâu hình chữ V, như một chiếc bánh đúc cắt hẹp, một miếng lego xéo góc con gái nàng hay bày ra giữa sàn nhà. Mặt ngoài, ở gần tầng một, có một tấm băng-rôn lệch mép của một hàng bún cua. Bún cua? Ở đây? Nàng ngạc nhiên.

 

Một bông anh đào rớt xuống chạm nhẹ vào tay. Hoa ở đâu? Nàng nhặt lên, có hai đứa bé trai trạc tuổi nhau chạy giỡn xô vào nàng. Một đứa lí nhí nói lời xin lỗi đứa kia vẫn đang cười hớn hở. Chắc có chuyện gì vui lắm.

 

Cánh cửa trắng ở góc xéo nhất của ngôi nhà mở ra. Một người đàn bà đẹp xuất hiện, mỉm miệng cười gượng gạo nhìn nàng, nhưng cũng mời nàng vào nhà. Người đàn bà lấy từ trong kệ sách ra một quyển sách dày và bắt đầu ký tên ở trang đầu, bằng cây bút Montblanc Platinum nàng được tặng nhân ngày tốt nghiệp. Bút của tôi, nàng định nói nhưng không mở miệng được. Chăm chú nhìn vào trang sách. Nét chữ đẹp và mảnh khảnh. Marilyn, một cái tên đẹp. Một ngọn gió lùa ngang và trước mắt nàng hai chữ "Mari" biến mất. Người đàn bà ngẩng lên nhìn nàng một cách kiêu hãnh: "Tôi là Lyn".

 

Nàng đưa tay định cầm lấy cây bút của mình, dẫu người đàn bà chẳng hề có ý định đưa cho nàng quyển sách. Chợt một người đàn ông xuất hiện cầm lấy quyển sách và cây bút từ tay người đàn bà, vui vẻ chào hỏi: "Bút đẹp lắm, của em phải không?" Lại đặt tất cả lên kệ sách. "Ơ, tại sao?" Người đàn ông lấy từ trong túi ra một chiếc khăn mùi xoa màu xanh đậm tự nhiên buộc lên cổ nàng, ngắm nghía, khen đẹp rồi vuốt tóc nàng. Nàng không phản đối. Người đàn bà có vẻ khó chịu ra mặt. Người đàn ông lại nói: "Thật là nhớ em!"

 

Một đứa bé gái trạc 7, 8 tuổi níu tay nàng nhìn người đàn ông vẻ nghi ngại. Kéo tay nàng chỉ vào cánh cửa mở ra đường cái. Người đàn ông đưa cho nàng một xấp giấy in đầy bảng biểu. Cây bút đã biến mất, quyển sách yên lặng nằm trên kệ sách ngăn cao nhất. Nàng ngạc nhiên cứ tưởng lẽ ra mình được nhận quyển sách đó. Đứa bé gái thánh thót: "Đi đi, mẹ ơi!" Người đàn bà đột nhiên thốt lên giọng đầy cay đắng. "Cô biến khỏi nơi này và đừng bao giờ trở lại". Nàng ngạc nhiên "Nhưng tôi chưa bao giờ đến đây". Người đàn bà chỉ vào những khung tranh trên tường "Cô nhìn xem, có phải ảnh của cô không?" Những bức tranh trong vùng tối mờ như một cái gì che giấu, nàng nghĩ thầm, nếu cô ta không thích thì cứ dẹp đi tại sao lại phải treo tranh. Tranh rất nhòe, nàng không nhìn ra gì cả, tuy nhiên có một bức vẽ trực diện cô gái nhìn thẳng, cổ quấn khăn choàng với mái tóc vừa kéo thẳng và một nụ cười rạng rỡ. Giật mình, hình như là mình. Nàng chưa bao giờ có tranh treo ở đâu cả, thậm chí chưa hề làm mẫu cho một bức tranh nào. Không ai vẽ nàng cả. Có lẽ chỉ là một sự trùng hợp, nàng nghĩ.

 

Người đàn ông nắm lấy tay nàng, "Giờ làm việc của anh có thay đổi. Đi, chúng ta đi xem ngôi nhà mới". Mười lăm phút lái xe sang một khu vực gần đó. Khu VF. Nhà hẹp, không mới. Cửa màu xanh. "Tại sao anh lại dắt em đến đây?" "Đây không phải nhà chính của chúng tôi, chỉ là nhà cho thuê, vừa mua vào năm ngoái, nhưng tôi không muốn đưa em về nhà mình". "Chẳng phải ngôi nhà vừa rồi là nhà anh đấy sao?" "Đó chỉ là ngôi nhà cũ trong quá khứ, em vừa nhìn thấy một hình ảnh thoáng qua thôi". Số nhà 1394. Thật không?

 

Anh ta bắt đầu hôn nàng. Nàng cố cưỡng lại, rồi không cưỡng lại nữa và bắt đầu nồng nhiệt hôn anh ấy. Như trong một giấc mơ hoang đường nhất. Tan chảy. Xấp giấy bảng biểu trong tay rơi xuống, không hiểu sao nàng nhớ con số 747,040. Có vẻ là một số tiền. Có vẻ là một mật mã. Khung cửa số 4. Một tờ báo có tên "Ngày Mới" mực đã xỉn màu, cũ lắm, cũ lắm, rơi ra cùng xấp giấy. "Trước khi anh lấy vợ." Người đàn ông nói, như giải thích. Và lại hôn nàng. Tất cả, nhòe đi, nhòe nhạt, tan loãng.

 

Nàng phát hiện mình đang gục đầu trước bàn ăn cá nhân trên máy bay. Một quyển tiểu thuyết bên cạnh, "Mùa vĩnh cửu", hay là “Mùa vĩnh hằng nhỉ”, nàng dụi mắt. Có những thành phố được đặt tên theo những loài hoa. Người đàn ông đã biến mất. Những đứa trẻ đã biến mất. Tờ giấy có con số ở trước mặt nàng. Nhìn kỹ, là số 767,040. Là số tiền. Doanh thu của một doanh nghiệp nào đó. Ước lượng. Nàng lúc lắc đầu. Tại sao. Giấc mơ. Hay sự thật. Người đàn ông đó là ai. Hình như là một người quen thuộc lắm. Người yêu? Nàng không nhớ ra.

 

Tiếng loa vang lên "Chúng ta đang hạ cánh xuống sân bay Victoria Airport. Đề nghị hành khách ngồi yên tại chỗ và thắt dây an toàn đến khi máy bay ngừng hẳn". Thành phố chữ V.

 

Trần Hạ Vi

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.