Hôm nay,  

Vết thương của một hạt bụi

16/07/202217:28:00(Xem: 2957)

Truyện ngắn

1- Ann Phong, the journey, mixed media, 40x55, 2014
The Journey by Ann Phong.

 

Em cúi đầu, giọng thấp hẳn xuống:

 

Cô ơi, theo em được biết, hồi xưa, một trong những hình phạt vô cùng kinh hãi là tứ mã phanh thây.

 

– Ừ, chỉ hình dung thôi cũng đủ khiếp sợ.

 

– Dạ, tay chân của phạm nhân bị cột vào bốn sợi dây nối vào chân bốn con ngựa. Khi hành hình, các nài ngựa sẽ thúc ngựa phi ra bốn hướng; nếu không có nài ngựa, người ta sẽ thét to lên hoặc đánh ngựa để chúng hoảng sợ bỏ chạy. Và bốn sợi dây sẽ kéo tay chân phạm nhân đến khi thân thể của họ bị xé ra.

 

– Ôi thôi! Nghe sợ quá!  Sao bỗng dưng em lại nói đến chuyện đó?

 

Em chậm rãi:

 

– Dạ, em đã tìm đọc nhiều thiệt nhiều những kiểu hành hình đau đớn nhất để coi cái đau của mình cỡ nào. Cô ơi, em đã từng bị hành hình theo cách tứ mã phanh thây!

 

– Hả?

 

Em trầm ngâm.

 

– Dạ, mà… có thể còn đau hơn, vì em không phải là phạm nhân, em không làm gì nên tội, em hoàn toàn vô tội, bấy giờ em chỉ là một đứa nhỏ chưa đầy tám tuổi.

 

– Hả?

 

– Dạ, ba em đã đem em ra cá độ, rồi ba bị thua.

 

– …

 

– Dạ, thực ra chuyện đó không lạ gì ở xứ em.

 

Làn gió xuân êm ái thổi qua, giọng em nhẹ tênh:

 

– Không hiểu sao em nhớ rõ lắm cô à. Cứ như thước phim được quay rất chậm, chậm đến độ không thể nào chậm hơn được nữa. Đó là buổi xế trưa, nắng quái hắt vào giữa sân, ba em cùng năm người đàn ông đang ngồi nhậu trên bộ vạc tre kê trước hiên nhà. Nhưng thôi, để tuần tới em kể cô nghe tiếp, tới giờ vô lớp rồi.

 

Em và tôi cùng nhanh chân xuống cầu thang lộ thiên. Những bậc thang rộng bằng xi măng giả đá nâu với những nét vân đen đẹp tuyệt. Gió biển lồng lộng đuổi theo tóc chúng tôi. Cửa phòng lớp học Yoga đang hé mở. Chúng tôi rón rén bước vào. Vài người khác cùng vào. Chúng tôi khe khẽ, nhè nhẹ trải tấm chiếu nhỏ của mình ra. Cô giáo có mái tóc vàng sáng, đôi mắt xanh lá cây, miệng luôn nở nụ cười tươi vui ấm áp, đón chào cả lớp.

 

 

 

Khoảng tám năm trước đây, một sáng Thứ Bảy, tôi đang dạy lớp Tiếng Việt trong  nhà thờ, một người đàn bà Mỹ trắng dẫn em vào lớp. Bà tự giới thiệu đơn giản, bà tên Julie. Rồi bà nói, con gái yêu của bà vừa làm xong bài khảo sát trình độ, thầy hiệu trưởng xếp con gái yêu vào lớp nầy. Trước khi ra về, bà bắt tay tôi, vui vẻ nói, con gái yêu của bà rất thích học tiếng Việt, nhất định bà cũng sẽ học tiếng Việt.

 

Con gái yêu của bà là em, người Việt, dáng gầy guộc, da hơi ngăm tái, đôi mắt to mênh mang ánh nhìn xa vắng, đôi môi không hề nở nụ cười. Khuôn mặt buồn bã của em được ôm kín bởi mái tóc đen dày xõa ngang vai.

 

Giờ ra chơi, em không rời khỏi chỗ. Tôi đến bên em.Em đang lần giở những bài học tiếp theo, chăm chú đọc.

 

– Chào em!

 

Em hơi giật mình, ngẩng lên, vẻ dè dặt:

 

– Em chào cô!

 

– Cô rất vui khi có em trong lớp. Em chăm học như thế nầy chắc vài bữa nữa em sẽ được lên lớp Năm.

 

–Dạ… em… em muốn học lẹ thiệt lẹ… để đọc sách tiếng Việt dễ dàng hơn.

 

–Tuyệt lắm. Nếu em có gì cần hỏi, cô sẵn sàng giúp em.

 

– Dạ… Cám ơn cô.

 

Em tiến bộ rất nhanh. Những bài tập làm văn tả cảnh tả người của em khiến tôi vô cùng kinh ngạc. Ẩn chứa trong đôi mắt u buồn xa vắng của em là cả một khoảng trời nồng ấm tình yêu thương đằm thắm dịu dàng.

 

Rồi mùa học qua nhanh. Sau đó em cũng mau chóng rời trường Tiếng Việt của nhà thờ.

 

Em:

 

– Em đã đọc ngốn ngấu sách báo tiếng Việt, như thể người đói được ăn, người khát được uống. Như thể khi lạnh run quơ được tấm mền để đắp. Em thường đọc trên Internet. Cô ơi, được đọc sách là một hạnh phúc lớn của em.

 

Em đọc sách tôn giáo, sách văn chương, sách lịch sử. Em lên mạng hàng ngày theo dõi tình hình bên Việt Nam. Hễ rảnh là em đọc. Bởi em muốn biết nguồn cội mình. Em muốn biết tại sao ba em và nhiều đàn ông ở Việt Nam nghiện rượu. Em muốn biết tại sao má em và nhiều đàn bà ở Việt Nam cúi đầu nhẫn nhục chịu đựng khổ đau. Tại sao tại sao tại sao? … Em muốn biết quá nhiều, mà em hiểu thời gian thì trôi quá nhanh nên em không thể phí phạm. Lắm khi nhức đầu quá, em chỉ muốn quên quên quên…, tất cả tất cả… nhưng rồi em không thể nào quên. Cái buổi xế trưa nắng quái hắt vào giữa sân, ba em thua cá độ.

 

– …

 

– Ba em cùng năm người đàn ông đã nhậu suốt từ sáng. Họ nhậu tơi bời. Lưỡi họ dường như đã cứng lại nên giọng họ nhừa nhựa. Họ nói năng bậy bạ, hát xướng bậy bạ. Em là người đi mua rượu. Cứ chừng một hồi, ba em kêu em đi mua rượu. Em  không nhớ bao nhiêu lần em đã phải lội bộ vô trong ấp để mua rượu.

 

– …

 

– Và lần cuối cùng, khi em, một tay vịn thanh cầu, một tay ôm bình rượu, từng bước chân men trên cây cầu tre dẫn vào nhà, em thấy ba em chỉ tay vào em, lè nhè: “Nó đó”. Rồi ba đổ sụm xuống như cây chuối bị chặt gốc. Sau nầy em mới hiểu “Nó đó” tức là ba em đem em ra cá độ. Họ cá nhau chuyện gì em không biết. Vậy là năm người kia kéo em xuống chiếc xuồng. Lúc đó em vẫn chưa hiểu gì ráo. Em kêu khóc, em giằng co, em giẫy giụa. Ba em vẫn gục trên bộ vạc tre. Má em đang nấu cơm chiều, nghe tiếng kêu khóc, nách bé Út chạy ra, ngơ ngác, líu quíu xà quần quanh sân bởi vướng mấy cái lu, cái khạp đựng nước mưa. Má vấp té mấy lần trước khi chạy men theo bờ sông, mặc cho bé Út đang bò lê khóc thét trên vũng nước. Anh Hai em hơn em ba tuổi, đứng chỗ sàn nước cạnh chân cầu, miệng há hốc, ngơ ngác nhìn. Không ai hiểu chuyện gì đang xảy ra. Hình bóng má cuối cùng trong trí nhớ em là tóc má xổ tung ra, xấp xải, bước chân trần của má liêu xiêu tuyệt vọng dọc theo bờ. Em nghe rõ tiếng gào khóc của má, của anh Hai, của bé Út đuổi theo, chạy dài dài theo khúc sông một đỗi rất lâu. Chỗ nhà em vắng, không ai nghe tiếng kêu cứu. Chuyện diễn ra nhanh như một ánh chớp.

 

Tôi ôm trán, rên rỉ:

 

– Ôi!

 

Biển muôn đời vỗ sóng. Biển nơi đây bình yên vỗ sóng. Giọng em như bị cắt thành từng lát mỏng dính trong thoáng gió biển lướt qua:

 

– Cô ơi, đó chỉ là bắt đầu. Chỉ là bắt đầu.

 

Em dừng lại. Không dưng em và tôi cùng nhìn ra xa. Bờ Thái Bình Dương vào chiều xanh thăm thẳm. Trời cũng xanh thăm thẳm nên biển và trời như tan hòa vào nhau. Xa xa, những con sóng trắng phau nhấp nhô lấp lóa dưới ánh nắng trông như dát bạc. Xa tít, giữa biển trời xanh ngát, thấp thóang vài cánh thuyền buồm nhỏ xíu như những chiếc lá, lấp lánh. Chỗ chúng tôi ngồi xa biển nên không nghe tiếng sóng vỗ, nhưng gió thì lồng lộng. Gió thổi tung mái tóc em và tôi. Ước gì gió cũng thổi tung hê tất cả những bất hạnh đời em. Giọt nước mắt vẫn cứ trào ra dù tôi cố nén, nhưng gió biển đã kịp thổi khô.

 

– Cô ơi, giá như ngày đó, họ cầm dao giết em, coi bộ đỡ độc ác hơn là họ đã tứ mã phanh thây em. Dày vò hành hạ tâm hồn em. Em đã mấy lần tìm cái chết, nhưng không thành, cũng qua đó, em hiểu rằng, chết không phải là điều dễ dàng.

 

– …

 

– Em đã qua nhiều ngày điều trị tâm lý sau khi được cứu ra khỏi hang ổ bọn buôn người. Ngay cả khi được sang đây, em vẫn  tiếp tục được điều trị,  nhưng làm sao em quên được.

 

Càng về chiều, biển càng sẫm màu, đẹp dịu dàng trong vẻ đẹp vĩnh cửu. Nắng đã nhạt màu. Gió bắt đầu lạnh. Tận chân trời đằng tây, xa tắp, mặt trời màu vàng cam vừa tựa cằm trên đường chân trời, nhuộm đỏ tía một vùng rực rỡ. Em dừng lại, trầm ngâm nhìn biển.

 

–Mẹ Julie thường đưa em đi tắm biển ở đây. Mỗi lần em ngập người trong biển, em cảm thấy dễ chịu lạ lùng. Nước biển mênh mông, sóng biển lúc êm ái vỗ về, lúc mạnh mẽ dữ dội dường như muốn xóa sạch mọi vết thương, vết hằn trên thân thể em. Biển bao la dường như nhắc nhở rằng em chỉ là hạt bụi. Và vết thương của một hạt bụi thì có nghĩa gì đâu.  Phải không cô? Ngâm mình trong biển, ngữa mặt nhìn trời xanh trên cao, em tự nhắn nhủ rằng em còn nhỏ hơn một hạt bụi, nỗi đau của cái chưa bằng hạt bụi thì có đáng gì.

 

– …

 

– Mẹ Julie thương em lắm. Có những đêm khuya, cơn ác mộng ngày xưa hành hạ em, em ú ớ, vùng vẫy, gào khóc, cào cấu. Mẹ Julie chạy qua, ôm em vào lòng, vỗ về em, thì thầm cầu nguyện.

 

Nhớ hôm đầu tiên vào lớp Yoga, tôi ngỡ ngàng, vui mừng, em đó phải không? Em chạy ùa đến bên tôi, dạ em đây, em chào cô. Lâu quá gặp lại cô, cô khỏe không? Cô khỏe, cám ơn em, còn em? Dạ em cũng khỏe, em đã vào đại học. Ừ, cũng lâu rồi, mà em xinh quá, nhìn mãi cô mới nhận ra em. Cám ơn cô.  Quả thật cô và em có duyên với nhau ha, cuộc gặp lại hiếm có đó em. Dạ.

 

Từ đó, em và tôi hay đến trường sớm độ vài chục phút, cô trò cùng leo lên tầng hai, ngồi trên chiếc ghế đá chỗ hành lang hướng về biển. Cô trò đều yêu thích nơi nầy. Hành lang thênh thang rộng, thênh thang nắng gió, cấu trúc rất nghệ thuật, đẹp mê hồn. Có bữa biển chuyển mình, gió nhiều, lạnh thấu xương, cô trò vẫn co ro trong chiếc áo khoác, thưởng thức hương gió, thưởng thức vẻ đẹp kỳ vỹ của trời biển, và chuyện trò.

 

Rồi khi vào lớp, cô trò trải tấm chiếu cạnh nhau. Chúng tôi thở chậm, đều, sâu và nhẹ. Chúng tôi mềm mại trong những động tác căng duỗi người và cân bằng.

 

Phần cuối của buổi học rất dễ chịu. Cả lớp nằm im trên sàn, thả lỏng người. Cô giáo sẽ kéo kín tấm rèm cửa hướng ra biển chiều đang phai nắng, và tắt tất cả các ngọn đèn, để ru mọi người bằng tiếng chuông nhẹ êm ngân nga.

 

– Hè năm ngoái, em về Việt Nam. Em đã đi qua gần như suốt chiều dài của đất nước mình. Em đã xuống tận mũi Cà Mau và lên đến Lạng Sơn. Những dấu ấn lịch sử, Tây Sơn Bình Định, núi Nưa... Em đã được đi qua nhiều dòng sông lịch sử, sông Bến Hải, sông Bạch Đằng, sông Hát…

 

– Ồ, tuyệt quá! Cô chợt nhớ hồi nọ khi học tới bài Bà Triệu, em giơ tay xin đọc câu nói của bà: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình  ở  biển đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người.”

 

– Dạ. Cám ơn cô. Cô nhớ hay thiệt!

 

– Điều đáng nhớ thì phải nhớ, em à.

 

– Dạ, cô ơi, em đã đi qua nhiều thành phố, nhiều miền nông thôn. Ô thôi! Đất nước thì bé nhỏ mà quán nhậu thì nhiều vô kể, em cứ tự hỏi tại sao tại sao?

 

– Rồi… em đã tìm được gia đình?

 

– Má em, sau khi em bị người ta mang đi, đã bị điên, rồi mất vì uống nhầm phải chai thuốc trừ sâu. Anh Hai em buồn giận ba em, bỏ nhà đi xa, nghe đâu đi xuất khẩu lao động gì gì đó, không ai biết tin tức. Bé Tư lên Sài Gòn đi làm thuê để kiếm tiền gửi về quê nuôi ba. Rồi ngày nọ, bé bị người ta dụ dỗ đi lấy chồng Đài Loan… Nghe kể, không bao lâu sau, người ta đưa cái hủ tro cốt của bé về… Bữa đó ba em nhậu xỉn, ôm hủ cốt bé Tư chạy qua cây cầu, trợt chân rớt xuống sông chết đuối. Chuyện gia đình em đó.

 

– …

 

– Giờ em vẫn còn đang học, và em đã định hướng cuộc đời mình. Em đã hiểu ra nỗi đau của em. Cô ơi, nỗi đau của em chưa bằng hạt bụi, sá gì với nỗi đau của má, của anh Hai, của bé Tư; thấm tháp gì với nỗi đau của biết bao nhiêu những đứa trẻ, những cô gái đang bị đày đọa trong các chợ buôn người rải rác trên nhiều quốc gia trên thế giới, và còn nhiều nữa... Nỗi đau của em đã dạy em bài học sống. Phải sống như thế nào, phải làm gì? Em không muốn nỗi đau của em trở thành vô ích.

 

Chúa nhật, một chị bạn rủ tôi đi nhà thờ Mỹ. Chị nói, bữa nay ở đó có một vị mục sư nổi tiếng được mời về giảng. Nghe nói lời giảng, cách giảng của vị mục sư ấy có lửa, đầy sức lan tỏa, thuyết phục.

 

Tôi ngỡ ngàng trước cách trang trí thanh nhã và trang trọng của nhà thờ. Tôi lặng im chiêm bái những bức tranh minh họa cuộc đời Đấng Cứu Thế trên các khung cửa sổ kính màu phỏng theo phong cách Gothic.

 

Tôi rảo mắt tìm kiếm người quen, và bỗng hết sức kinh ngạc. Kìa! Có phải là em? Tôi đeo mắt kính vào, rồi gỡ mắt kính ra, có phải là em? Một cảm xúc rất lạ trào dâng khiến tôi rưng rưng.

 

Đúng là em! Em đang đứng trong ban hát dẫn trên bục giảng. Em bé nhỏ giữa các cô gái Mỹ trắng, Mỹ màu cao lớn. Em xinh xắn tinh khôi trong chiếc đầm trắng, giày trắng, dây buộc tóc màu trắng. Em như một đóa huệ trắng nuốt. Em thanh khiết trong sáng như thiên thần. Em hát hết lòng hết dạ. Thỉnh thoảng em nhắm mắt như để lắng sâu tâm hồn vào lời ca thánh.

 

Kìa là bà Julie, mẹ em. Tôi vừa bắt gặp đôi mắt long lanh hạnh phúc của mẹ Julie đang ngồi dãy ghế cạnh tôi. Tôi biết lát nữa đây, khi nói về em, bà Julie sẽ vô cùng sung sướng “con gái yêu của tôi, con gái yêu của tôi…

 

Em đó ư? Đứa bé đã từng quằn quại dưới gánh nặng quá khứ đau buồn tủi hờn.

 

Em đó ư? Đứa bé mà ngày nọ, trước giờ vào học, thường ngồi ủ rủ trong góc nhỏ chỗ chân cầu thang nhà thờ, đôi mắt vô hồn, vẻ mặt lạnh lẽo, môi không bao giờ nở được nụ cười.

 

Ừ, đó là Em! Em ngày xưa đã từng bị hành hạ đau đớn như cách tứ mã phanh thây và đã học được rằng đó chỉ là vết thương của một hạt bụi.

 

Trương thị Kim Chi

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.