Hôm nay,  

Thêm một lần tiễn người đi

24/07/202220:57:00(Xem: 3094)

Tạp bút

Death-quotes1

 

Thế là thêm một lần nữa tiễn người đi, người ấy dù khác chủng tộc màu da, khác tập quán văn hóa, khác quan điểm nhân sinh… Nhưng người ấy vẫn là môt con người, có đầy đủ lục căn, thất tình lục dục;  một hữu tình chúng sanh có Phật tánh và đầy đủ cơ hội để phát triển.

 

Cuối tuần rồi tôi lại đi đến nhà quàn để đưa tiễn con gái của một người bạn Mỹ người da đen làm chung bao nhiêu năm nay. Cô ấy làm hai việc, làm nhiều giờ và quá căng thẳng nên bị đột quỵ, sau khi đưa vào nhà thương thì hôn mê sống đời thực vật hơn một năm trời, nay gia đình quyết định rút ống trợ sinh để cô ta được ra đi. Việc kéo dài hay chấm dứt đời sống thực vật cũng là một vấn đề tranh cãi bao lâu nay, cả bên chống và bên thuận vận dụng hết lý lẽ, luật pháp, đạo đức… để cố chứng minh là mình đúng, cuộc tranh cãi bất phân và các tiểu bang cũng tùy nghi.

 

Tôi đã nhiều lần đi dự tang lễ của người Mỹ bản địa, lần này cũng không ngoại lệ. Cái cảm giác đầu tiên cảm nhận được là không khí trang nghiêm, thanh tịnh, lặng yên. Những người tham dự tang lễ đều ăn mặc chỉnh tề, đa phần quần áo đen hoặc màu sậm. Phụ nữ thì trang điểm rất kỹ, đeo đầy đủ đồ trang sức cứ như đi dự hội. Quan niệm người Âu-Mỹ là thế, phải chỉn chu trang phục mới là tôn trọng người quá cố.

 

Vẫn như thông lệ, trước hết vị linh mục đọc một bài kinh, sau đó hát thánh ca, nhạc hòa tấu không lời, một vài thân nhân và bạn bè phát biểu cảm tưởng hoặc kể kỷ niệm với người chết. Không khí trầm lắng, lặng lẽ nhưng nhiều cảm xúc, vài người sụt sùi nức nở nhẹ. Trong số những người phát biểu, nếu gặp người dí dỏm và duyên dáng thì cũng tạo được những tràng cười thoải mái, những tràng vỗ tay râm ran. Nói chung không khí đám tang nhẹ nhàng chứ không quá sầu thảm hay đau khổ như những đám tang Việt, Tàu… Thât khó mà tưởng tượng được, nếu trong đám tang Việt hay Tàu mà mọi người cười thoải mái như đám tang người Âu-Mỹ. Tất cả mọi công đoạn của buổi tang lễ ăn khớp nhịp nhàng với nhau và nhanh, gọn, lẹ… không quá hai giờ đồng hồ!

 

Tôi nhiều lần định viết chút gì đó về cảm nhận của mình về hai phương thức tang lễ Việt  và Mỹ nói riêng, tang lễ của phương đông với phương tây nói chung. Nay dự tang lễ về, cảm xúc còn nên viết liền một mạch cũng không quá hai tiếng luôn.

 

Tang lễ người Mỹ rất thanh tịnh, nhẹ nhàng, rất tự nhiên khác xa với cách thức rườm rà và rình rang, thậm chí ầm ĩ, inh ỏi của đám tang Việt. Vẫn biết rằng tang chế cũng như các lễ nghi do con người chế ra, chịu ảnh hưởng của tập quán văn hóa, truyền thống bản địa… Sở dĩ đám tang Việt như thế là do cái căn bản tập quán văn minh tiểu nông, văn hóa làng xã và một phần du nhập hình thức kiểu Tàu ( tiểu biểu như sách dạy tang lễ “ Thọ mai gia lễ”). Đám tang Viêt áo xống rườm rà, kèn trống ầm ĩ, cả giàn bát âm và sau này thêm giàn kèn tây, con cái nằm ngang cản quan tài hoặc nằm dọc để khiêng quan tài bước qua, chống gậy đi giật lùi, rồi những hình thức khóc mướn kể thuê, rồi còn cái chuyện xem phong thủy, xem cuộc đất, coi ngày giờ…  Không khí tang lễ Việt buồn thảm và mang nặng hành xử cảm tính, hình thức. Còn vấn đề mộ bia cũng rất đáng để nói, sống thì nghèo khổ nhà tranh vách đất nhưng chết cũng cố xây ngôi mộ “hoành tráng”. Cái tâm lý “Con gà ghét nhau tiếng gáy” rất phổ biến, mộ sau phải to hơn mộ trước, và thế là cả nước có những ngôi mộ bạc tỷ, chục tỷ, những nghĩa địa cứ như một thành phố lầu đài. Trong khi ấy người Âu-Mỹ sau khi chết chỉ thiêu hoặc chôn, đa phần khỏa bằng mặt đất, trồng cỏ xanh tươi, cắm một tấm bia đơn sơ với vài dòng chữ ghi tên họ, ngày tháng thế thôi! Khi đã chết rồi, xây mộ to mả lớn chỉ là để khoe mẽ làm màu của người sống, việc ấy chẳng có ý nghĩa chi cả. Người Âu-Mỹ vậy mà “hiểu đạo” hơn, rất đơn giản, thực chất, xem việc sanh tử là tự nhiên.

 

Cũng như mọi lần dự tang lễ người Mỹ, lần này cũng thế, sau mọi nghi thức thì một vị linh mục da đen bước ra diễn thuyết. Ông ấy có chất giọng trầm, khỏe và hùng biện rất hay: “Chúa đã gọi cô ấy về, cô ấy xứng đáng hưởng và sống trong nhan thánh chúa. Cái thân xác của cô ấy nằm trong quan tài chỉ là cát bụi và nó đang trở về với cát bụi. Còn linh hồn cô ấy thì vĩnh hằng nơi nước chúa. Cửa thiên đàng rộng mở và các thánh tông đồ chờ đón những linh hồn của những người khi sống đặt niềm tin ở chúa (điều này ngầm hiểu là những ai không tin chúa thì sẽ không được lên thiên đàng). Mạng sống con người rất ngắn ngủi và nhanh chóng. Chúa cho chúng ta sự sống và chúng ta không thể biết khi nào chúa gọi về…”

 

Vị linh mục diễn thuyết hay, hùng hồn không chỉ bằng lời mà còn bằng cả ngôn ngữ cơ thể. Trông biểu cảm và rất thuyết phục, ông dứt lời thì những tràng pháo tay rất giòn vang dội. Trong mười lăm phút diễn thuyết, thỉnh thoảng thêm chút pha trò dí dỏm làm cho người dự tang lễ cười ồ lên, trong những phút giây ấy dường như quên đi sự chết chóc đau khổ. Cái câu “Thân xác này trở về cát bụi” thường thấy nói đến trong thiên chúa. Nhạc vàng thời trước cũng có ca khúc viết: “… Mai này trở về cát bụi giàu khó như nhau… Người nhớ cho ta là cát bụi, ta là cát bụi xin người nhớ cho”. Thật đúng như thế, thân thể con người và cả con vật chỉ là vô số những tế bào hợp thành. Nhà Phật gọi là tứ đại, khi đủ duyên thì hợp lại sanh ra, khi hết duyên tan rã tan hoại. Cái gọi là linh hồn vĩnh viễn như đức tin thiên chúa thì nhà Phật không cho là vậy. Cái gọi là linh hồn và vĩnh viễn thì rơi vào chấp thường, còn vô thần như cộng sản cho chết là hết thì lại rơi vào chấp đoạn. Phật giáo quan niệm con người ngoài phần thân vật chất (sắc) còn có phần tâm (danh). Khi hết duyên thì thân thể tan hoại (chết) nhưng phần tâm (danh, thần thức) sẽ tùy theo cái nghiệp thiện ác trong quá khứ mà sẽ thọ cái thân mới tương ứng, có thể là nhân, phi nhân hoặc súc sanh…

 

Cái xác người phụ nữ (con gái người bạn) nằm trong quan tài được trang điểm đẹp và khéo, cứ như người nằm ngủ. Cái xác vô tri chẳng còn biết gì, thật ra đã vô tri hơn một năm trời rồi, vì cô ấy sống đời sống thực vật, sống bằng trợ thở dưỡng khí và trợ dưỡng vật thực. Cái xác vô tri thì chôn hay thiêu cũng như nhau, chẳng qua là đạo lý và nhân văn của con người. Chúng ta thử nhìn xem thực tế một tí, trận dịch Coronavirut vừa qua, vô số người chết, người ta chỉ có thể chôn vùi trong hố tập thể hoặc thiêu tập thể chứ đâu thể nào làm tang lễ cho từng các xác chết. Hoặc hiện tại có hàng ngàn nạn nhân người Ukraine chết vì bom đạn của quân xâm lược Nga, cũng đành chôn trong hố chôn tập thể, hoặc vùi lấp sơ sài.  Một khi đã qua đời, cái thân xác vô tri mà còn dùng những cái quan tài quý giá, những ngôi mộ đồ sộ thì chẳng có ý nghĩa gì cả, thậm chí rất vô lý và vô minh. Thế gian này có nhiều gã độc tài tàn bạo, sống thì gây họa cho người và vật, chết đi còn gây tốn kém công qũy, thuế dân. Những cái xác xấu xa được đem đi ướp như cá mắm rồi trưng chình ình ra đấy cho thiên hạ xem chơi. Việc ướp xác là của những thế kỷ mông muội xa xưa, nào ngờ thế kỷ hai mươi vẫn còn chuyện ướp xác, cứ tưởng ướp xác là tôn quý là thương người chết chăng? Thật sự ra là làm trò cười cho thiên hạ, dân gian vậy mà chí lý: “Thương nhau như thế bằng mười hại nhau”. Thay vì để cho cái xác trở về cát bụi, đằng này ướp xác để trưng, liệu cái hồn kẻ chết ấy có siêu thoát được chăng? Thật lá quá đỗi vô minh! Có thể ướp xác không phải là ý nguyện của người chết mà là do bọn nha trảo làm với dụng ý “Thờ Bụt ăn oản”.

 

Thêm một lần đi dự tang lễ, dù là tang lễ người Mỹ hay người Việt, trong tôi đều có cái cảm xúc buồn man mác, buồn về thân phận con người, hiểu thêm chút lẽ vô thường. Đời sống ngắn ngủi và mong manh, sự sống ở giữa hai làn hơi thở, một khi hơi thở không vào ra nữa thì dừng lại, bỏ lại hết dù đó là công cao cái thế, gia sản điền trang, gia can sự nghiệp, thân bằng quyến thuộc… Thật đúng với cái câu: “Nhất đán vô thường vạn sự hưu”.

 

Thế gian và đời sống của con người rất mong manh, rất vô thường, thay đổi liên tục, sanh diệt liên lỉ, sanh ra là đã có cái chết, chết lại là mầm mống sanh. Tuy nhiên con người ta một khi chết đi thì sự tái sanh phần nhiều đều đọa, số thăng rất ít ỏi, bởi thế mà thế gian đầy rẫy những người bất hạnh khổ đau, bệnh tật, đói kém… Điều đó cũng cho thấy chúng ta làm việc thiện lành ít mà làm việc ác thì nhiều. Sanh tử luân hồi vô tận, thế gian thành- trụ-hoại-không vô chừng, đó là phần thô có thể thấy, còn phần vi tế hơn như phần đoạn sanh tử và biến dịch sanh tử thì rất khó để nhận ra. Chết không phải là hết, đó chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp.

 

Tôi đi dự tang lễ của một người Mỹ da đen, nhìn cái xác vô tri mà cảm thương ngậm ngùi một kiếp người, rồi lại cảm thán biết bao khi nghĩ đến những người sống thì làm bao nhiêu chuyện tày trời, tham lam, sân hận. Người quyền thế lớn thì gây họa cho cả cộng đồng, một quốc gia, một dân tộc hay họa cho nhiều quốc gia, nhiều dân tộc. Người quyền thế kém hơn thì làm hại một một phận dân chúng, một phần quốc độ. Người tầm thường thì làm hại một vài người, một gia đình… Ba chữ tham-sân-si gồm thâu tất cả những gì họ làm. Còn chữ vô minh thì hầu như ứng với mọi người chúng ta. Giá mà mọi người đều ý thức được cái chết hiện hữu trong cái sanh, cái xác thân này sẽ có lúc bất động vô tri, cái thân xác cát bụi sẽ hoại nhưng hậu quả đã làm của cái xác khi còn sống thì còn dài lâu bất tận.

 

-- Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 07/22)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.