Nhà Thơ, Nhà văn, Nhà Viết Kịch LANGSTON HUGHES

26/08/202200:00:00(Xem: 3127)

Nguyễn Thị Khánh Minh
giới thiệu
Langston Hughes và Maya Angelou là hai tên tuổi lớn của nền thi ca da đen. Trang thơ xin bắt đầu với Langston Hughes. Ông sinh ở Joplin, Missouri, là một nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch. Thơ của ông kết hợp nhiều thể loại, mang đậm nét những bài hát dân gian da đen. Ông tôn vinh nền văn hóa người Mỹ gốc Phi châu trong thời kỳ được gọi là Thời kỳ Phục Hưng Harlem.
 
Langston Hughes là tác giả của 16 tập thơ, nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch và truyện viết cho thiếu nhi. Tập thơ đầu tiên của ông là Weary Blues, in năm 1926.

Trong một bài viết, tác giả Sao Khuê đã gọi thơ văn Huges là Tiếng Hát Của Dòng Sông:
 
Đã từ lâu, tôi yêu thi ca của những người da đen cũng như yêu điệu blues trên những kè đá và vỉa hè New Orleans, trong khu French Quarter. Với Langston Hughes (1902- 1967), tôi cũng đặc biệt yêu mến khi nghe ông nói về những dòng sông xưa như những mạch máu trong cơ thể người, những điệu blues và những chuyến xe lửa xuôi về miền Nam.  Gần đây, lang thang trên các trang mạng, tôi tìm thấy thêm những trang viết về âm hưởng jazz trong thơ Langston Hughes và những bài dịch từ thơ của tác giả này. Sau đây xin chuyển tới bạn đọc bản dịch của Thanh Tâm Tuyền, Vũ Hoàng Linh, Pháp Hoan và Nguyễn Đăng Thường. (Trích, Langston Hughes: Tiếng Hát Của Dòng Sông, Sao Khuê, báo Trẻ Online).
 
Langston_Hughes
LANGSTON HUGHES sinh ngày 1 tháng 2 năm 1902. Cha mẹ anh là hai chủng tộc, cả hai đều là con của chủ nô lệ và người Mỹ gốc Phi. Gia phả của ông bao gồm nhiều di sản, bao gồm người Mỹ bản địa, Do Thái, Pháp và Anh. Tuy nhiên, Ông chủ yếu tự nhận mình là người Mỹ gốc Phi, và xa cách với cha mình, người có quan điểm tiêu cực kỳ lạ về văn hóa da đen ở Hoa Kỳ.
  
ĐIỆU BLUES HOÀI HƯƠNG
 
Cầu xe lửa là
Điệu hát buồn trên không
Cầu xe lửa là
Điệu hát buồn trên không
Mỗi lần chuyến tàu qua
Tôi thèm rời chỗ khác
 
Tôi đi xuống phía ga
Trái tim ngậm trong miệng
Tôi đi xuống phía ga
Trái tim ngậm trong miệng
Tìm xe còn đỗ bến
Đưa tôi về miền Nam
 
Điệu blues buồn não nuột
Thượng đế ơi, khủng khiếp
Điệu blues buồn não nuột
Thượng đế ơi, khủng khiếp
Để ngăn mình khỏi khóc
Con há miệng cười
 
THANH TÂM TUYỀN dịch
 
*
 
BÌNH MINH Ở ALABAMA
 
Khi tôi trở thành nhà soạn nhạc
Tôi sẽ viết cho mình một ca khúc
Về bình minh trên đất Alabama.
 
Tôi sẽ đặt vào đấy những bài hát trong lành
Những bài hát xuất hiện trên mặt đất như thể mây mù
Rơi xuống từ bầu trời như những hạt sương
Tôi sẽ đặt những cây cao trong đấy.
Và hương thơm của lá thông
Và mùi đất sét đỏ sau cơn mưa
Và những chiếc cổ dài đỏ ửng
Và những khuôn mặt có màu hoa anh túc
Và những cánh tay to khỏe màu nâu
Và những đôi mắt của cúc dại trên đồng
Của người da đen và trắng đen trắng đen
Tôi sẽ đặt vào đó những đôi tay trắng
Những đôi tay đen, nâu cũng như vàng.
Những đôi tay vùi sâu trong đất đỏ
Chạm vào nhau bằng những ngón thiện lành
Chạm vào nhau tự nhiên như những hạt sương
 
Trong ban mai của âm nhạc
Khi tôi trở thành nhà soạn nhạc
Và viết về bình minh ở Alabama.
 
VŨ HOÀNG LINH dịch
 
*
 
GIẤC MƠ
 
Giữ lấy giấc mơ bên cạnh
Bởi nếu giấc mơ đi rồi
Đời là con chim gãy cánh
Không thể tung bay lên trời
 
Giữ lấy giấc mơ bên cạnh
Bởi nếu giấc mơ đi rồi
Đời là đồng hoang hiu quạnh
Chìm trong tuyết trắng mà thôi.
 
*
 
HARLEM
 
Điều gì sẽ xảy ra
khi giấc mơ bị trì hoãn?
 
Nó sẽ héo mòn theo năm tháng
như trái nho phơi dưới nắng mặt trời?
Hay nó sẽ rỉ chảy khắp nơi –
như vết thương lâu ngày mưng mủ?
Nó sẽ bốc mùi thối rữa
như miếng thịt bị bỏ lại trên bàn?
Hay nó sẽ đóng vảy hoàn toàn –
phủ một lớp đường và sẽ như bánh kẹo?
 
Có lẽ như gánh hàng nặng trĩu
nó sẽ chỉ uốn cong.
Hay nó sẽ như bom phát nổ?
 
*
 
NGƯỜI DA ĐEN NÓI VỀ NHỮNG DÒNG SÔNG
 
Tôi đã biết những dòng sông:
Tôi đã biết những dòng sông cổ như trái đất và cũ hơn dòng máu trong huyết quản loài người.
Linh hồn tôi lớn lên sâu thẳm như những dòng sông đó.
Tôi đã tắm trong lòng Euphrates những bình minh ấu thơ.
Tôi đã xây căn nhà nhỏ gần phía Congo và nó ru tôi ngủ.
Tôi đã nhìn mặt sông Nile và những kim thự tháp nhô lên trên nó.
Tôi đã nghe những lời ca của Mississippi khi Abe Lincoln xuống miền New Orleans, và tôi đã thấy những khúc quanh lòng bùn của nó vàng lên trong hoàng hôn.
 
Tôi đã biết những dòng sông:
Những dòng sông cũ kỹ, tối tăm.
Linh hồn tôi lớn lên sâu thẳm như những giòng sông đó.
 
PHÁP HOAN dịch
 
*
 
NHỮNG VÌ SAO
 
Ô, vệt sao sáng kia trên đường phố Harlem,
Ô, hơi gió thoảng lãng quên là đêm tối đó.
       Cả thành phố vươn cao
       Theo tiếng hát người mẹ.
       Cả thành phố mơ màng
       Theo điệu hát ru con.
 
Hãy đưa tay, hỡi em bé da đen, hái lấy một vì sao.
Từ tận cùng hơi gió thoảng lãng quên
       Là đêm tối đó.
       Chỉ hái lấy
       Một vì sao thôi.
Thập giá
Cha già của tôi là một ông cụ da trắng
Và mẹ già của tôi là một bà da đen.
Nếu như tôi đã nguyền rủa người cha già da trắng,
Tôi xin rút lại những lời chửi đó.
Nếu như tôi đã nguyền rủa người mẹ già da đen
Và mong cho bà sa địa ngục,
Tối hối tiếc lời chúc hung dữ đó
Và bây giờ tôi muốn bà được yên thân.
 
Cha già của tôi qua đời trong ngôi nhà to và đẹp.
Mẹ tôi đã chết trong một túp lều.
Tôi tự hỏi mình sẽ chết ở nơi nào,
Bởi tôi không đen không trắng?
Những kẻ lang thang
Chúng tôi là những kẻ tuyệt vọng,
Những kẻ không bận tâm,
Những kẻ đói khát,
Không có lấy một chỗ
Để ăn,
Không một nơi nào để ngủ,
Những kẻ không nước mắt
Không biết
Khóc.
                                       

NGUYỄN ĐĂNG THƯỜNG dịch

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong tập Bốn Mùa Trời và Đất, Márai Sándor cảm giác về mùa hè, …Tôi đứng trên ban công, giữa một vùng xanh, nghe tiếng rì rào thức dậy của cây cỏ. Mùa hè đây rồi, tôi nghĩ; và nó giống như một cảm xúc tràn ngập trong tôi, không khoan nhượng, và đầy những kỷ niệm giản dị… (Giáp Văn Chung dịch) Trong tản văn Hoa Nở Vì Ai, Vũ Hoàng Thư viết, …Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm… Và mùa hè trong truyện của Đặng Thơ Thơ, … Đó là lúc chín nhất của mùa hè. Những trái táo bắt đầu căng mật. Từ trong lá cây thoảng ra những ngọn gió màu xanh thẫm...Ở Cảnh Nhàn của Bạch Vân Cư Sĩ có thú sống, xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…, có lẽ thời của người, nước còn trong ao còn sạch.
Bạn đang nghe thấy gì trong khí hậu tháng Tư? / Tiếng kêu từ đáy huyệt cuối trời. / Tiếng gió xoáy những cột cờ tử thương tuẫn tiết. / Tiếng phố vỡ triệu mảnh thủy tinh cắt lồng ngực tháng tư rỉ máu mãi chưa khô. / Tiếng sóng hôi dao mùi hải tặc từ oan nghiệt một thời biển huyết. / Tiếng oan hồn dật dờ tìm về cố quận, đáy vực kia bầy cá hoang tảo mộ. / Tiếng hậu chấn từ tâm hồn con dân tháng Tư choàng lên thảng thốt. Dấu chàm xanh lưu xứ để nhận ra nhau. / Tiếng con bướm gáy trong giấc ngủ đôi bờ chiến tuyến. / Tiếng vô vọng của dòng thơ đớn đau, sỉ nhục trải dài trên đất đai tổ quốc. /Tiếng mong mỏi trên những dòng thơ đang vuốt mắt lịch sử, xin hãy chết yên, chết quên, và mở lòng ra ôm những vết thương, trồng lại bóng Quê Nhà…
“Chìm trong biển chết trôi tim người / Còn gì đâu tiếc thương xa xôi …” Chiếc tàu nhỏ rời bến Constantine, Algeria, chở Enrico Macias đến một nơi xa lạ, người lưu vong không bao giờ được phép trở về. Làm sao cánh chim di có thể quên lối cũ? Chiến tranh xua đuổi ông ra khỏi quê nhà. Tàu khởi hành không một người đưa tiễn. “Người tình ơi, ta xa nhau. Mượn đôi mắt em lên đường.” Với cây guitar làm hành trang, ông ghi lại, “J'ai quitté mon pays …”
Hãy tạm để những chuyện buồn nằm im dưới mâm cỗ ngày Tết, để ta chỉ được thấy màu xanh lá bánh chưng, màu đỏ ối ruột dưa hấu, màu vàng đỏ tung xòe trong những bao lì xì nhỏ, màu nắng chín nhấp nháy trên những trái quất… bây nhiêu đó có đủ để bạn đón hơi thở mới của đất trời? Hy vọng vậy để chúng ta được mọc lên như cỏ non trên khung rêu ngày tháng cũ. Bài thơ của Nguyễn Hồng Kiên tôi đọc được từ trang của trường Mầm Non Cự Khối, bài thơ được dạy cho các em lứa 4 tuổi, như một lời chúc tết hồn nhiên.
Cho nhân dân tôi, thức dậy trong bóng tối, những người hát bài ca im lặng, những người than thở trong im lặng, những người nổi giận trong im lặng, những người yêu nhau trong im lặng, lời cầu Nguyện cho nhân dân tôi, những người đi trên đường, chạy tất bật từ sáng đến tối, cho bữa ăn của người nghèo đói, hít thở khói và bụi, những người già trước tuổi, những người không bao giờ biết hát, những người không bao giờ biết cười, những người không bao giờ biết nói dối
Houston mùa hè nóng có thể nướng thịt trên mui xe hơi./ Họa sĩ bò dưới đất vẽ chân dung kiếm tiền đổi rượu./Nàng mẫu ngồi khép hở y phục lả lơi./ Đường nét sắc màu bỗng dưng tơi bời khung bố, trời đất sẽ vô cùng phẫn nộ, nếu đàn ông không thích đàn bà, nếu bàn tay cứ chăm chú vẽ./ Tao không kể hết chuyện để người đọc tự đoán. Xe cứu thương chuẩn bị hụ còi. Bác sĩ xuất hiện. Mày ôm bức tranh nằm thoi thóp . /Tao thấy hết từ đầu qua khe cửa phía sau.
Những bài thơ xuất sắc của Giáng Vân nằm ở biên giới giữa điều có thể nói và điều không thể nói ra. Thơ chị có nhiều đề tài, tình yêu, suy tư lịch sử, những xúc động mới về thế giới hiện nay. Đó là một loại thơ sâu kín, cắm rễ trong vùng tối đen của tiềm thức, nhưng hướng về phía ánh sáng. Giáng Vân không ngần ngại nói về sự bế tắc, sự cùng đường của xã hội, cái chết và sự diệt vong của con người. Trong tập thơ gồm 36 bài, những mảng tối được thấy rõ, sự buồn rầu, lo lắng, cảm giác phẫn nộ, nhưng chị nói nhiều hơn đến sự vượt qua. Chị tin vào tâm hồn. Thơ chị có hai nguồn mạch: những câu chuyện riêng tư và những nỗi lo âu của thời đại mình. Chị có những bài thơ đi tới chỗ tận cùng, nơi giao điểm của hai niềm cảm hứng, đó là một kiểu thơ trữ tình thời sự hiếm gặp hôm nay.
Nhà thơ Vũ Trọng Quang bảo mũi tên ấy bay hoài bay không tới. Làm sao bay kịp thời gian. Hoặc giả như vầy. Nơi tôi ngồi cố định, và. thời gian đi qua đi qua. Khi lời thơ vừa thốt lên là lúc tôi rơi mất thời gian. Không gian nào giữ những lời đi. Ở những bài thơ sau đây bạn có thể thấy được nơi thời gian và không gian gặp nhau trong nhịp lẫy tình cờ. đã ra đi là muôn đời ở lại…Bây giờ là bao giờ??? Bao giờ là bây giờ!!!, chiếc kim đồng hồ lẩn thẩn/ như con kiến già bò trên miệng chén… …Bạn cùng tôi như ai kia thập tự vác mình qua đông gió, cứu chuộc nỗi tàn phai của Màu thân thể ngó chừng cũng cũ cùng sự lãng quên muôn đời, để có thể trong thế giới siêu hình yên tĩnh của ta được an ủi Mưa trầm trầm dương thế/ Ngấm sâu miền âm gian… , dù mưa không dội sạch được những linh hồn run rẩy, và dẫu Đó là cánh cửa bí mật/ từng khép cửa linh hồn…
Nhịp lá rơi đang xô chèo dòng thu cập bến. Những con thuyền năm tháng sẽ tiếp tục dong buồm. Nơi chốn nào gọi là đáy đĩa mùa đi ơi Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh? Có phải là nơi Bình tàn thu vai phấn nghiêng rơi của thi nhân 80 năm trước? Hay trong cơn khát của mùa thu của Trang Thanh? Hay nơi dấu chân em lối vàng xưa của Lê Hoàng Anh? Hay nơi mùa trăng hóa quỳ vàng của Lê Vĩnh Tài? Hay nơi mặt đất dâng lên nuốt ánh mặt trời của Duyên? Hay nơi tiếng chạm của những viên đá tím của Nguyễn Thị Khánh Minh? Hay nơi rực rỡ hoàng hôn rực rỡ Đêm tháng 11 cuối cùng của Lê Chiều Giang?
Bài thơ này đăng trên Việt Báo vào ngày 10 tháng 8 2024. Người dịch nói rằng “…Bài này hợp với tinh thần Phật Giáo…” Tác giả Henry Wadsworth Longfellow là một nhà thơ nổi tiếng vào bậc nhất ở Mỹ trong thế kỷ 19. Trong tiểu sử không thấy nhắc ông có nghiên cứu về Phật Giáo. Có thể giải thích rằng những gì thuộc về chân lý, sự thật thì sẽ mãi mãi tồn tại, bất kể Đức Phật có thuyết giảng hay không.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.