Hôm nay,  

Mối Tình Tay Ba Giữa Rilke, Pasternak Và Tsvetaeva

31/08/202218:10:00(Xem: 2019)
letters
Tập thư Letters - Rainer Maria Rilke,
Boris Pasternak, và Marina Tsvetaeva


Trong quyển hồi ký Walk Through Walls của nghệ sĩ trình diễn Marina Abramovic, bà kể khi bà còn là một cô bé cô độc 15 tuổi, bà đã đọc ngấu nghiến quên ăn, tập thư Letters: Summer 1926, những trao đổi tay ba qua thư từ giữa Rainer Maria Rilke, Boris Pasternak, và Marina Tsvetaeva, và người này thì yêu đắm đuối hai người kia. Nhà thơ Joseph Brodsky cho rằng đây là một trong những chuyện tình đẹp và ly kỳ nhất trong văn học Nga.

Chuyện kể là trong những năm đầu của Thế chiến thứ nhất, cả Pasternak và Tsvetaeva đều sống ở Moscow, đều đã có tên tuổi trong vòng tròn văn chương và đều đã nghe thơ nhau trong những buổi đọc thơ nhưng cả hai không hề có ấn tượng gì với nhau.

Cho đến năm 1922, Pasternak bị chấn động khi đọc tập thơ Versts của Tsvetaeva (khi đó đã rời khỏi Moscow và sống lưu vong cùng chồng là Sergei Efron), và đã gửi cho Tsvetaeva một bức thư bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình. Từ đó bắt đầu nảy nở mối tình văn chương mãnh liệt qua thư từ giữa hai người. Cả hai đều trạc tuổi nhau (Pasternak khi ấy 32, Tsvetaeva 30) đều sinh trong một gia đình nhà giáo và đều có mẹ là nghệ sĩ piano, đều yêu tiếng Đức và văn học và âm nhạc Đức.

Hai nhà thơ trẻ tiếp tục trao đổi thư từ cho đến năm 1926 thì có sự xuất hiện của Rilke trong những bức thư. Tháng 12 năm 1925, Tây Âu cùng tham gia
chúc mừng sinh nhật lần thứ 50 của Rilke, khi đó đã là một tên tuổi lớn trong văn học Đức. (Những bức thư trong tập “Thư gửi chàng thi sĩ trẻ tuổi” được viết khi Rilke chỉ mới 27 tuổi). Trong những lời chúc mừng sinh nhật, có một bức thư của họa sĩ Leonid Pasternak, cha của Boris Pasternak, khi đó đã sống ở Berlin cùng với vợ và những người con gái của mình từ năm 1921. Bức thơ nhắc lại lần gặp gỡ giữa hai người trên một chuyến tàu ở Thụy Sĩ. Rilke trả lời bức thư và đó là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến những trao đổi tay ba qua thư từ này.

Rilke đã học, đọc, dịch sách, lẫn làm thơ bằng tiếng Nga, đã sang thăm Nga hai lần, gặp gỡ Tolstoy (qua sự giới thiệu của Leonid Pasternak) và xem nước Nga như một quê hương tâm linh của mình. Boris Pasternak khi 10 tuổi đã được gặp Rilke trong chuyến thăm Nga lần thứ hai của Rilke (cùng với Lou Andreas-Salomé, không ai khác hơn là người trong mộng trong mối tình một chiều tuyệt vọng của Nietzsche).

Trong những bức thư trước đó, cả Pasternak và Tsvetaeva đều nhắc đến Rilke, như là “hóa thân của thơ ca và đời sống tâm linh, một hình mẫu cần được tôn thờ”. Pasternak gợi ý Rilke viết thư cho Tsvetaeva và mối tình tay ba bắt đầu từ đó. Điều đáng nói là sau một thời gian thì Tsvetaeva bắt đầu cảm thấy tình yêu dành cho Rilke sâu đậm hơn cho Pasternak, viết thư cho Rilke và bày tỏ là bà muốn gặp ông ở Đức. Rilke nói: “Em không thể gặp anh được-Anh sắp chết”. Tsvetaeva trả lời: “Em cấm anh chết”. Rilke vẫn cứ chết vào tháng 12 năm 1926 và mối tình tay ba tan rã.

Tsvetaeva, khi đó đã quay về Moscow và Pasternak, đang sống ở Paris, tiếp tục viết sonnets cho nhau. Sau đó bà lại phải đi khỏi nước Nga và sang sống ở miền Nam nước Pháp (vì đã lấy một lính bạch vệ và đã bị cộng sản bắt giam), rồi hết tiền nên lại phải quay lại nước Nga. Bà và Pasternak quyết định gặp nhau, lần đầu tiên sau 5 năm liên lạc qua thư từ. Bà sẽ dừng ở ga Lyon ở Paris trên đường về nước. Tsvetaeva mang theo một chiếc Vali cũ của Nga, chứa quá nhiều áo quần đến nỗi nó bị rơi ra ngoài. Pasternak vội chạy đi và đem về một đoạn dây để buộc vali lại. Cả hai đều quá xúc động khi gặp nhau, họ ngồi yên đó, không nói nên lời, bởi “có nói cũng khôn cùng”. Pasternak nói ông phải đi mua thuốc lá, rồi không bao giờ quay lại, để Tsvetaeva ngồi đó chờ mãi cho lúc lên tàu.

Tsvetaeva đem theo chiếc vali cùng với sợi dây và trở về Nga. Về nước, chồng thì ở tù, bà túng thiếu. Bà đến Odessa, và trong lúc tuyệt vọng, viết thư cho hội nhà văn, hỏi xin làm lao công. Hội nhà văn trả lời là họ không cần. Bà về nhà, dùng chính sợi dây mà Pasternak đã dùng để sửa vali và treo cổ tự tử, ngày 31 tháng 8 năm 1941, cách đây 81 năm, khi mới 48 tuổi.

Phan Quỳnh Trâm

Tóm tắt từ hai quyển Rainer Maria Rilke, Boris Pasternak, Letters: Summer 1926 và Marina Tsvetaeva, Walk Through Walls: A Memoir, 2016.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”... Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v... qua những phương tiện truyền thông khác.
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.