Hôm nay,  

Việt Báo Trong Trí Nhớ Cổ Tích

9/9/202208:16:48(View: 3541)
hình trên báo
Từ trái: Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Xuân Nghĩa, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Kiều Chinh, Phan Tấn Hải, Hòa Bình, Thảo Trương, Hằng Nguyễn

 

 

Nếu tính theo lịch thế gian, Việt Báo tròn 30 năm tuổi. Nhưng, nếu dò theo trí nhớ mơ hồ của tôi, Việt Báo hẳn là 3000 năm tuổi. Trong một ngôi làng rất mực thần thoại cổ tích như Little Saigon của chúng ta, Việt Báo chỉ là một góc nhỏ của làng, nhưng lại là nơi chất đầy trong tôi những kỷ niệm khó quên. Nơi đây, tôi sẽ kể về những hình ảnh mà tôi đoán là ít người nhớ tới trong lời kể từ các bài viết khác về 30 năm Việt Báo.

 

Nhiều người không biết rằng nữ diễn viên Kiều Chinh là một trong những người chạy đi tìm quảng cáo nuôi sống Việt Báo từ những ngày đầu tiên. Một năm sau khi Việt Báo ra đời, có một sự kiện lớn của làng nghệ thuật Việt Nam: phim The Joy Luck Club trình chiếu khắp Hoa Kỳ năm 1993 trong đó một vai chính do Kiều Chinh đóng. Tức là, Việt Báo xuất hiện năm 1992, thì qua năm sau là có sự kiện lớn là lần đầu một phim lớn lại có một nữ tài tử Việt, và tài tử này là một người đã giúp Việt Báo tích cực. Lúc đó, tôi được Việt Báo giao nhiệm vụ là xem phim rồi phải viết bình luận (tôi nhớ là buổi ra mắt phim ở Quận Cam là ở một rạp hát trên đường Westminster, gần góc đường Beach). Các bạn cũng biết, tôi vào nghề báo rất vụng về, vì trước đó chỉ viết truyện, làm thơ và viết bài nghiên cứu về Phật học. Có một thực tế nữa, lúc đó tôi nghe tiếng Anh không đầy đủ, huống gì trên phim The Joy Luck Club diễn viên nói với nhau đâu có chờ cho mình nghe đâu. Tôi đã chọn cách dễ nhất: nhớ nữ diễn viên Kiều Chinh nói gì thì ghi lại, lược bớt, và rồi tổng hợp, bổ túc thêm bằng cách dịch lại từ nhiều bài bình luận của báo Mỹ về phim này. Kinh nghiệm này là bài học lớn cho tôi về nghề báo: phải đọc nhiều, nghe nhiều, tổng hợp nhiều -- dĩ nhiên, khi trích dẫn phải ghi nguồn để không bị chụp mũ là đạo văn.

 

Kỷ niệm lớn nhất của Việt Báo là bộ sách Viết Về Nước Mỹ, gom bài từ giải thi Viết Về Nước Mỹ. Nghĩ ra giải thi viết là do nhà báo Trần Dạ Từ. Giải thi này gần như lập tức thu hút người viết khắp thế giới. Và đa số người tham dự đã viết rất hay, rất xuất sắc. Về sau, điều hành chủ lực các lễ trao giải Viết Về Nước Mỹ hàng năm là anh Nguyễn Xuân Nghĩa, chị Trương Ngọc Bảo Xuân… trong khi đó, giữ nhiệm vụ MC thường trực là chị Thụy Trinh, LS Nguyễn Hoàng Dũng. Có một người sau khi tham dự một buổi lễ trao giải Viết Về Nước Mỹ đã về nói với tôi, rằng điều kỳ lạ rằng, tất cả những người nữ -- từ những người tham dự giải thi viết cho tới người trong tòa soạn Việt Báo -- đều rất đẹp. Tôi nói, họ đều là hoa hậu cả đấy, từ già tới trẻ, đều là quốc sắc thiên hương. 

 

Một điểm có vẻ như tình cờ: Việt Báo gắn bó, thân tình với các hoạt động Phật Giáo. Trước khi vào Việt Báo, tôi viết nhiều bài về nghiên cứu Phật học, nhưng chuyện này không dính gì tới Việt Báo. Có một điểm rất ít người biết: nhà văn Nhã Ca, người sáng lập Việt Báo, là một học trò của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Liên hệ đó là qua cố Đại sư Tây Tạng Tsultrim Gyeltsen (người được nhà văn Nhã Ca gọi thân mật là Geshela) vị thầy khi sinh tiền thỉnh thoảng vẫn tới thăm  tòa soạn Việt Báo. Và một lần, Giáo sư Tenzin Dorjee đã chở ngài Geshela tới tận nhà tôi, nói rằng để làm phép 4 góc nhà và tụng chú quanh nhà để cầu an (tự động Đại sư có ý như thế, chứ tôi không nghĩ ra chuyện như thế). Lúc đó, ngài Tsultrim Gyeltsen tặng tôi 2 cuốn sách tiếng Anh về Trung Luận do Đại sư mới ấn hành. Ngài là Giáo sư về Phật học, dạy cùng trường UCLA với ngài Thích Thiên Ân.

 

Ngài Tsultrim Gyeltsen và GS Tenzin Dorjee (dạy ở CSU Fulleton) thường tới thăm tòa soạn VB. Anh Dorjee là con nuôi của nhà văn Nhã Ca, và trở thành cầu nối Đức Đạt Lai Lạt Ma với cộng đồng Việt tại Quận Cam. Cũng chính tòa soạn Việt Báo là nơi tôi phỏng vấn chị Huyền, mẹ của cậu thiếu niên Don Pham được Thầy Gyeltsen đón sang Dharamsala để cậu Pham vào tu viện Tây Tạng học từ khi 15 tuổi; bây giờ nhà sư trẻ này đã là Tiến sĩ Phật Học Tây Tạng, sau học trình đã nhập mật thất thêm nhiều năm.

 

Việt Báo cũng có cơ duyên thân tình với Công Giáo: đăng nhiều bài và phỏng vấn luật sư Nguyễn Mạnh San, một Phó tế Công Giáo và là người có hạnh tu đức rất mực gian nan: trong hơn 20 năm đã tình nguyện vào các nhà tù Oklahoma để trợ giúp pháp lý cho tù nhân, an ủi, mời gọi cầu nguyện chung. Tôi đã giúp Thầy San (trong cách gọi thân mật) ấn hành sách bản tiếng Việt nhan đề “Luật Pháp Hoa Kỳ Thực Dụng” trong đó Thầy San kể về những nam nữ tù nhân gốc Việt trong nhà tù Oklahoma. Tôi đã làm một số video phóng lên YouTube để ngợi ca hạnh nguyện rất gian nan của Thầy San, vì lẽ ra Thầy San có thể kiếm tiền nhiều hơn thay vì tình nguyện vào giúp pháp lý trong tù. Chức vụ chính thức của Thầy San là đặc trách Tông Đồ Mục Vụ Trại Tù cho Tòa Tổng Giám Mục hơn 21 năm liên tục, để giúp đỡ trực tiếp các anh chị em tù nhân về vấn đề pháp lý, trước khi về hưu vào năm 2012. Bạn sẽ thấy nhiều video và bài viết về Thầy San, khi bạn vào YouTube hay Google, gõ chữ “Phó Tế Nguyễn Mạnh San.”

 

Chuyện này cũng ít người nhớ: Việt Báo cũng có cơ duyên đăng những bài và lời kêu gọi đầu tiên của Mục sư Nguyễn Xuân Bảo, người khởi động xây giếng, đào giếng, tặng gạo tại các vùng xa xôi ở Miền Tây VN. Thời gian đầu, nhiều báo khác, nhiều đài phát thanh tránh né, không dám đăng bài của Mục sư Bảo vì sợ bị chụp mũ là giúp xây dựng kinh tế cho CSVN. Tôi liều mạng đăng đầu tiên, vì nghĩ rằng không ai nỡ chụp nón cối cho Việt Báo, nơi gần như tất cả những người chủ trương đều đã nằm tù CS nhiều năm, như Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Thảo Trường, Hồ Văn Đồng, Doãn Quốc Sỹ… (mà cộng các năm tù lại, nhiều hơn một thế kỷ). Thế rồi có một lần, nhà thờ của Mục sư Nguyễn Xuân Bảo bị đốt, cháy một góc; nhưng điều đó không ngăn được việc làm từ thiện của Mục sư. Mục sư Nguyễn Xuân Bảo kể rằng sau một chuyến đi từ thiện, khi máy bay ngừng trung chuyển ở Seoul, Nam Hàn, lúc đó là mùa World Cup, Mục sư Bảo nói, “Nơi phi trường, tôi chỉ nhớ duy nhất một người là anh Hải, nên tôi mua một quả bóng đá có huy hiệu World Cup để về tặng anh Hải, cho đứa con anh nó tập chơi bóng đá.” Làm từ thiện nhiệt tâm như Mục sư Bảo quả nhiên là hy hữu.

 

Trong tòa soạn, ai là người về nhà trễ nhất? Tôi vẫn nhớ những ngày xa xưa Việt Báo hình ảnh nhà thơ Lê Giang Trần cặm cụi trên các trang giấy dán. Thời xưa, chưa có máy điện toàn, tới khi có máy điện toán thì dấu tiếng Việt chưa có. Do vậy, phải cắt dán. Về nghệ thuật cắt dán, siêu đắng nhất trong nghề báo ở Quận Cam là Lê Giang Trần (tôi không nghĩ ra có ai giỏi hơn anh này). Tôi có nhiều kỷ niệm với Lê Giang Trần, vì tôi dịch tin xong, hay viết bài xong, là in từ máy điện toán ra cho công đoạn cuối của tòa soạn là cắt dán, rồi mới đưa các khuôn đó sang nhà in; nghĩa là, người về nhà trễ nhất phải là Lê Giang Trần. Tới khi có chi nhánh Việt Báo ở San Jose, Chấn Lê lại là người cực nhọc vì phải đưa các khuôn đã trình bày đó tới phi trường, gửi phi cơ tới San Jose, nơi sẽ có người nhận để đưa tới nhà in. Nghĩa là, khi đó, về nhà trễ nhất lại là Chấn Lê. Nói như thế cũng chưa đúng, vì mọi người đều cho là anh Trần Dạ Từ mới là người về trễ nhất. Trong trí nhớ của tôi, anh bao giờ cũng ở tòa soạn, làm gì có giờ về nhà.

 

Có một chu kỳ nghệ thuật: mỗi năm sẽ có một ngày tòa soạn Việt Báo mệt nhọc vì Giải Điện Ảnh Oscars. Tới khi nước Mỹ có Internet, thì mọi chuyện đơn giản hơn: phải chờ cho Đại Hội Phim Ảnh Oscars có danh sách thắng giải, dịch ra thành bản tin, rồi mới về nhà. May mắn cho Việt Báo: từ khi anh Huỳnh Kim Quang vào làm việc, những chuyện cực nhọc và gian nan nhất đã có anh chung sức gánh vác. Do vậy, những đêm khuya phải thức chờ danh sách thắng Giải Oscars vui hơn, đỡ mệt nhọc hơn.

 

Tương tự, cứ mỗi 2 năm nước Mỹ lại có bầu cử. Ngày bầu cử thường kết thúc lúc 8 giờ tối, sau đó phải chờ thêm vài giờ đồng hồ mới có kết quả bầu cử sơ khởi. Thế là anh Huỳnh Kim Quang gánh vác các bản tin về bầu cử. Tin càng sớm càng tốt, nhưng để trễ thì độc giả rầy.

 

pth nc

Việt Báo mỗi năm có Báo Xuân. Tờ giai phẩm này làm rất cực nhọc. Kể như là tim, là óc – thực sự, chứ không đơn giản là giấy mực. Bỏ ăn, bỏ ngủ làm Báo Xuân cực nhọc nhất là anh Trần Dạ Từ, rồi anh Nguyễn Xuân Nghĩa. Tôi may mắn, không trách nhiệm nặng về Báo Xuân, vì chỉ viết một truyện ngắn cho mỗi năm là tự thấy là đủ. Tuy nhiên, Báo Xuân Việt Báo năm nào cũng trễ hơn các tòa soạn khác. Biết làm sao bây giờ? Bởi vì anh Trần Dạ Từ lúc nào cũng muốn toàn hảo, nên trễ là tất nhiên. Dù vậy, năm nào Báo Xuân Việt Báo cũng là tuyệt vời nhất thế giới (xin thú thật, tôi có bệnh luôn luôn đánh giá thiên vị).

 

Có một kỷ lục báo khác không thể có: anh Trần Dạ Từ, người sáng lập Việt Báo, cũng là nhạc sĩ sáng tác. Tính tơi bây giờ đã có 2 CD nhạc. Đầu tiên là CD Nụ Cười Trăm Năm (đêm nhạc ra mắt CD là năm 2011), và CD Gội Đầu Bay (đêm nhạc ra mắt CD là năm 2015).

 

Hai Phan
Chủ Bút Phan Tấn Hải trước cửa tòa soạn Việt Báo, Westminster.



Nhớ lại những ngày ngồi trong tòa soạn Việt Báo, kỷ niệm mơ hồ như trí nhớ đã mọc rêu mốc nhiều ngàn năm. Nơi đây tôi đã gặp Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh, Thảo Trường, Kiều Chinh, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Hồ Văn Đồng, Nguyễn Đức Quang, Phạm Duy, Nhật Tiến, Nguyễn Khắc Nhân, Hoàng Quốc Bảo, Cung Tiến, Khánh Ly, Trần Duy Đức, Trịnh Thanh Thủy, Trần Chí Phúc, Thu Vàng, Nguyễn Lương Vỵ, Nguyễn Quốc Thái, Lê Lạc Giao, Cung Tích Biền… Cũng như các họa sĩ:  Ann Phong, Nguyên Khai, Nguyễn Việt Hùng, Phan Chánh Khánh, Rừng, Khánh Trường... Và đặc biệt, là được gặp các bạn đang hộ trì VB hiện nay: Hòa Bình, Trịnh Y Thư, Nguyễn Thanh Huy, Hằng Nguyễn, Huỳnh Kim Quang…

 

Tôi có cảm giác Việt Báo là cái gì xa lắm, rất mực cổ tích. Nơi đó, là một tờ báo trong ngôi làng Little Saigon, nơi mọi người đều xuất hiện trong trí nhớ lung linh… Việt Báo, nơi mọi người đều tử tế, đều nhiệt tâm… Mọi chuyện về Việt Báo đều huyền ảo trong trí nhớ… Và là một phần lớn, một phần rất lớn trong đời tôi.

 

Phan Tấn Hải

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”... Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v... qua những phương tiện truyền thông khác.
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.