Hôm nay,  

Nhớ một vầng trăng

21/09/202208:05:00(Xem: 3667)

Truyện ngắn

 

hquan 1
Trăng soi qua Tử Cấm Thành – Tranh Đặng Mậu Tựu.

 

Bữa cơm trưa văn phòng, nàng kể cho mấy người bạn đồng nghiệp rằng, chiều qua, xe lửa trục trặc, nàng mất gần ba tiếng đồng hồ mới về đến nhà. Người bạn đồng nghiệp lắc đầu ngao ngán:

 

– Trời ơi, em mà phải cực khổ như chị, chắc em bỏ việc luôn.

 

Nàng cười cười:

 

– Mình chẳng cảm thấy gì bất tiện cả.

 

Nàng nghĩ, tiện, không tiện, cũng phải đi làm. Chứ không, chốn này, đất đai đâu, để nói, cạp đất mà ăn. Nàng tự an ủi mình, cũng là một cái thú, đâu phải ai muốn có là được. Mỗi ngày thêm vài tiếng đồng hồ thoải mái, muốn đọc sách, nghe nhạc, ngủ gật hay đơn giản ngó quanh, quan sát thiên hạ, ngái ngủ sớm mai trên đường đến hãng, hoặc xật xừ, đờ đẫn sau ngày dài làm việc. Cô đồng nghiệp khác góp ý:

 

– Ghét nhất là xe lửa trễ giờ. 

 

Nàng không trả lời. Nàng chẳng thấy phiền hà, cũng chẳng ghét bỏ hệ thống hỏa xa của Đức. Bởi, nhờ xe đến muộn, nàng đã gặp lại người anh của nhỏ bạn cùng lớp thời trung học. Khi bảng thông tin chạy dòng chữ Zug E40 fällt aus. Chuyến xe số E40 bị hủy. Trong khi chờ thông tin tiếp, bao giờ có xe, nhiều người bực bội rủa sả lung tung. Nàng nhủ thầm, mình than vãn tiếng Việt, không ai hiểu, chỉ mình nghe, rồi mình lại bực. Than tiếng Đức, nàng đâu đủ tài năng mà thi thố với những người Đức thứ thiệt. Trời vào hè, ngày dài ra. Chín, mười giờ mặt trời mới lặn. Nàng thản nhiên tìm ghế trống ngồi chờ, đọc tiếp cuốn sách mang theo. Chuyến xe này hủy, sẽ có chuyến sau. Hơi đâu mà nóng giận cho... già người đi. Số người dồn lại nhà ga càng đông. Những tiếng chê bai càng lúc càng tăng cường độ.

 

Nàng đã xong trang cuối của cuốn sách. Vẫn chưa có thông tin bao giờ tàu chạy. Nàng lấy điện thoại, mắt vừa lướt lướt những trang trên Facebook, vừa trông chừng bảng thông tin của xe lửa. Đến trang có bức tranh thiếu nữ mảnh mai, mặc áo dài vàng, tựa như hình bìa của tờ báo Tuổi Ngọc ngày xưa. Ngón tay nàng dừng lại, không vuốt vuốt mặt kính nữa, ngắm nghía bức tranh, nàng đọc tựa bài thơ: tôi xin lót lá em nằm.

 

Cám ơn người những sớm mai/ đậu vào tôi giọt nắng say môi hồng/ ơn em mây thả bềnh bồng/ vương tôi tóc rối tỏa nồng hương yêu

(Nguyễn Minh Phúc, 2018)

 

Êm đềm, thơ mộng quá chừng. Tên tác giả Nguyễn Minh Phúc, nghe quen quen. Nàng chợt nhớ, nhỏ bạn có người anh cùng tên tác giả. Nhỏ bạn kể, anh của nhỏ làm báo, làm thơ. Nàng loanh quanh trong sân nhà Nguyễn Minh Phúc đọc thêm vài bài thơ khác. Bài nào cũng dễ thương. Khi mọi người ào ào lên xe lửa, nàng vội rảo bước theo. Nàng nghĩ, về nhà, nhất định phải dò la tông tích của Nguyễn Minh Phúc. Nàng mằn mò rất lâu. Vừa sử dụng các “thành tựu khoa học kỹ thuật” về Facebook để bắt liên lạc với tác giả Nguyễn Minh Phúc. Vừa vận dụng ngôn ngữ “ngoại giao”, viết đôi dòng giới thiệu làm quen, để lỡ có nhầm lẫn, không đến nỗi... quê một cục. Có chí thì nên, người xưa nói không sai. Anh Nguyễn Minh Phúc xác nhận là anh của nhỏ bạn. Anh Phúc biết các chị của nàng. Anh Phúc cùng vài người bạn thân từng là khách dài hạn của tiệm sách và quán cà phê của Mạ nàng. Gặp lại người quen cũ, dẫu gặp “ảo”, nàng vui lắm. Anh Phúc nhắc đến những người bạn của anh, có cùng những ngày tháng lãng đãng thơ và nhạc. Phút tay bắt, mặt mừng trôi qua, đôi dòng thư đi, tin lại. Rồi thôi. Nàng thỉnh thoảng đọc những bài thơ rất thơ trên Facebook của anh Nguyễn Minh Phúc. Anh Phúc và nàng, cả hai đều có những bận rộn riêng. Cho nên, tái ngộ xong, coi như để đó.

 

Nàng có chuyến du lịch 10 ngày ngang dọc nước Nam Phi. Lịch trình dày đặc với lên núi, xuống phố, ra biển, vào rừng... Ngày nào cũng thú vị với nhiều ấn tượng đẹp về đất nước Nam Phi. Trong thời gian này, điều kiện vào internet không dễ dàng. Có dịp, nàng vào nhanh WhatsApp, đọc tin nhắn gia đình và viết mấy câu hỏi thăm. Nàng chẳng hề nhớ nhung wifi như chị bạn đi cùng, đến đâu cũng lo ngay mật mã để vào internet.

 

Chương trình ngày thứ Bảy đầy ắp, từ bình minh đến hoàng hôn. Sáng sớm, cả nhóm trực chỉ Mũi Hảo Vọng. Từ tháp hải đăng ở cực tây nam châu Phi, nàng mê mẩn nhìn xuống những làn sóng của Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương giao nhau. Cuối ngày, mọi người được tùy nghi sử dụng buổi tối ở khu phố Waterfront của thành phố Cape Town. Về đến khách sạn khá khuya. Mệt nhoài, tâm trí vẫn còn đầy ắp ấn tượng của biển trời, núi non, cây cỏ, phố phường. Nàng vội vàng mở máy nói vài lời gởi cho con. Nơi góc nhỏ của điện thoại, nàng thấy dấu hiệu có tin nhắn của NMP. Anh Phúc kể, anh bệnh thời gian qua, nên không liên lạc. Nay, sức khỏe tạm ổn. Anh Phúc bảo, bỗng nhiên, anh nhớ nhiều những ngày tháng với người bạn chí thân, anh Trầm Thụy Du. Đèn trong khách sạn vàng mờ mờ. Trước đó, mắt nàng trĩu nặng vì buồn ngủ. Nhưng câu chuyện anh Phúc kể, đã níu, đã giữ mắt nàng không rời màn ảnh bé tí của điện thoại.

 

Anh Phúc nói, giờ đây chép lại bài thơ của anh Trầm Thụy Du gởi cho nàng, anh Phúc cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng. Cuối cùng, anh Phúc thực hiện được chuyện anh Trầm Thụy Du nhờ, dẫu muộn màng.

 

Như chiếc lá cuối mùa rơi lặng lẽ/ buổi tàn thu đường phượng lá vàng bay/ anh vẫn còn lang bạt cuối chân mây/ mơ phố xá với nụ cười em gái ...nay anh chỉ còn chút hồn đầy mộng/ nhớ ngày xưa như nhớ một vầng trăng

(như nhớ một vầng trăng...* Trầm Thụy Du –  1975)

 

Nàng tưởng như đang lần giở cuốn sách nằm quên trên kệ tủ gần nửa thế kỷ. Những trang sách ố màu thời gian kể chuyện về nàng, một thiếu nữ vào tuổi mộng mơ. Kể chuyện về anh và người bạn của anh, những thanh niên vừa tuổi đôi mươi, ở tỉnh lỵ miền trung. Năm ấy, nàng đang tuổi mười ba, mười bốn, nàng đang nhí nhảnh, theo gió mưa em đi hát xây mộng cho người, trên cánh thơ tuyệt vời hát yên vui cõi đời. Nhà của nàng có quán cà phê, nơi có nhiều văn nhân, thi sĩ lui tới. Anh thường đi trong nhóm ba người. Cả ba người đều là thi sĩ, nàng nghĩ vậy. Nàng đã đôi lần nghe lóm, nhớ lén những câu thơ các anh ngâm nga cho các chị của nàng.

 

Cơn lốc dữ 1975 đã đẩy cuộc sống gia đình thiếu nữ xuống cùng cực, điêu đứng, đã cuốn đi những giấc mơ xinh của thiếu nữ. Cơn lốc đã làm những thanh niên hụt hẫng, chới với. Những mơ ước hoài bão của tuổi trẻ bỗng chốc vụt mất. Một sớm, một chiều, anh và người bạn, đang là những học sinh trung học, chuẩn bị khoác áo sinh viên, bỗng nhiên thành những người mất phương hướng trong cuộc sống. Không lâu sau, anh và người bạn chí thân lụng thụng trong bộ cánh bộ đội. Rời xa thị xã nhỏ bé, có nhà sách quen ở đường Phan Bội Châu, có quán cà phê vườn ở đường Quang Trung. Bỏ lại sau lưng gia đình, trường lớp. Cũng may, người bạn chí thân luôn đồng hành cùng anh.

 

Lần nọ, bộ đội đóng quân ở mũi Ba Tân Gân, một địa điểm ở một bán đảo gần Quảng Ngãi. Biết bạn mình được sắp về phép, anh rủ bạn ra ngồi hiên sau trại lính chuyện trò. Anh và người bạn ngồi bên nhau, thật lâu, cả hai trầm ngâm. Mãi lúc sau, anh lên tiếng, phá tan sự yên lặng:

 

– Mày về phép, có đi đâu không?

 

– Chỉ có ba ngày. Tao về ở nhà, cho bà già vui.

 

Anh rút trong túi tờ giấy học trò, có bài thơ anh làm. Thuở ở trường, anh là trưởng ban báo chí. Bạn bè vẫn trầm trồ nét bút rồng bay phượng múa của anh. Anh bỗng buồn buồn, nhớ bài hát vui vui anh nghe những năm trước, thư của lính ba lô làm bàn nên nét chữ không ngay. Mấy tháng làm bộ đội, đã làm tâm hồn anh mệt mỏi, cằn cỗi. Chữ viết đâm ra nguệch ngoạc. Anh nhỏ giọng:

 

– Mày đến quán cà phê Uyên, đưa thư này cho Thúy. Nhớ đưa tận tay nhe.

 

Anh gọi là thư, nhưng chỉ vẻn vẹn bài thơ. Chứ không có thêm chữ nào, để bài thơ thành lá thư.

 

Người bạn về đến nhà, ngồi chơi với cha mẹ một lúc. Bà mẹ rạng rỡ, lăng xăng nghĩ nấu món ăn đãi đằng con trai. Người bạn vội đạp xe đến quán cà phê. Thị xã Quảng Ngãi bé tí. Có lẽ còn nhỏ hơn Pleiku của thi sĩ Vũ Hữu Định. Người bạn đến, chỉ gặp Mạ của nàng. Nàng phải theo trường lớp đi đào kênh, đắp đập đâu đó.

 

Hôm cuối cùng, người bạn lại ghé quán cà phê, trước khi trở về đơn vị trình diện. Người bạn vẫn không gặp nàng. Thuở ấy, không có điện thoại để nhắn tin. Người bạn không dám đưa thư cho Mạ nàng. Người bạn bỏ bài thơ trong phong bì dán kín. Tính tìm cô giúp việc, nhờ cô chuyển. Vờ hỏi bâng quơ, người bạn mới biết, gia đình nàng đã phải cho tất cả người giúp việc nghỉ làm, sợ bị mang tiếng tư bản bóc lột. Người bạn áy náy lắm, vì không làm tròn việc anh nhờ, dù chỉ là việc bé cỏn con. Người bạn biết anh đang lóng ngóng chờ tin. Về lại đơn vị, người bạn ngài ngại trả phong bì có bài thơ cho anh. Anh thất vọng lắm. Anh rầu giọng:

 

– Mày giữ giúp. Lúc nào có dịp, trao cho Thúy.

 

Dòng đời ngược xuôi, xô đẩy nàng đi, càng lúc, càng xa mãi quê nhà. Cả anh và người bạn không gặp lại nàng. Anh vẫn ở nơi tỉnh lỵ nhỏ bé, nhưng rất thân thiết ấy. Người bạn lưu lạc đến mãi tận cùng của đất nước. Hai người rất ít liên lạc với nhau. Nhưng trong tâm tưởng, vẫn là đôi bạn thân, từ tuổi hoa niên cho đến khi vào tuổi cao niên. Người bạn vẫn giữ bài thơ của anh và canh cánh trong lòng nỗi băn khoăn, không thực hiện được chuyện anh gởi gắm. Người bạn buồn thảng thốt, khi biết tin anh lâm trọng bệnh, giã từ cõi tạm khi anh vừa qua tuổi 60. Người bạn nghĩ, sẽ có dịp nói đôi lời tạ lỗi trước vong linh của anh.

 

Ngày ấy, phải chi có duyên, nàng đã được đọc bài thơ trong chữ viết tay rất lả lướt của anh. Nếu vậy, có lẽ nàng ngượng ngùng, lúng túng, lí nhí nhờ người bạn nhắn gởi lời cám ơn anh và gởi lời thăm anh. Cũng có lẽ, nàng chép vội mấy câu thơ gởi anh.

 

Vẫn lặng lẽ để anh nghe vừa đủ/ Vẫn thờ ơ cho rủ hết màn the/ Vẫn mỉm cười rồi vẫn lấy tay che/ Cho cặp mắt bỗng nhiên mười sáu tuổi

(Bài thơ còn lại, Hoàng Anh Tuấn)

 

Mãi bây giờ, khi anh đã yên nghỉ nơi miền vĩnh phúc, nàng mới biết đến những vần thơ anh viết tặng nàng. Nàng đốt nén hương lòng, thầm nói với anh lời cám ơn.

 

Ban chiều, tít tận cực nam của châu Phi, ở Cape Town, trong lúc đi dạo quanh khu phố Waterfront, tình cờ, nàng được mời nhìn vào viễn vọng kính để thấy nửa vầng trăng. Vừa dán mắt vào ống kính, nàng nghe lời cắt nghĩa của người chủ viễn vọng kính. Vầng trăng đó, là vệ tinh cho trái đất. Rời mắt khỏi ống kính, ấn tượng còn lại trong trí nàng, mặt trăng chỉ là một khối đất đá tròn tròn, cách địa cầu gần 400 ngàn cây số. Chỉ vậy thôi.

 

Mấy tiếng đồng hồ sau, những dòng chữ li ti trên điện thoại đã giúp nàng đi ngược lại những ngày tháng của nhiều thập niên trước. Nàng thấy lại một khoảng đời nhiều biến động. Ngày tháng đó, cuộc sống của anh, của nàng bị bủa vây bởi biết bao nhọc nhằn, thống khổ. Nhưng anh vẫn cho nàng được làm “em gái giữa tim anh“. Anh đã viết những câu thơ thật đẹp cho nàng.

 

Ngay lúc này, nàng bỗng nhớ tha thiết một vầng trăng.

 

Hoàng Quân

 

Trích lời ca trong các nhạc phẩm:

Tuổi Mộng Mơ của nhạc sĩ Phạm Duy

Tình Thư Của Lính của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh

 

* Bài thơ chép lại theo trí nhớ của thi sĩ Nguyễn Minh Phúc, một người bạn của thi sĩ Trầm Thụy Du. Trong bài thơ có vài chữ, câu khác với bài thơ Nhớ Một Vầng Trăng đăng trong trang web Sắc Màu Thời Gian.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.