Nữ thi sĩ Maya Angelou

23/09/202200:00:00(Xem: 3135)

f4cf1b1c0377f06a09104991b709ed19
Nhà thơ, nhà văn, nhà sử học, giảng sư, nhà báo, nhà làm phim, ca sĩ, diễn viên, và là nhà hoạt động nhân quyền MAYA ANGELOU.

 

Maya Angelou tên thật là Marguerite Ann Johnson, sinh ngày 4/4/1928 tại St. Louis, Missouri. Bà mất ngày 28/5/2014 tại Winston-Salem, North Carolina. Bà là nhà thơ, nhà văn, nhà sử học, giảng sư, nhà báo, nhà làm phim, ca sĩ, diễn viên, và là nhà hoạt động nhân quyền. Bà được mệnh danh là Nữ Thi Hào Da Đen của nước Mỹ, và được học giả Joanne M. Braxton gọi là người phụ nữ da đen viết tự truyện xuất sắc nhất của nước Mỹ.
 
Bà nổi tiếng với bộ tự truyện 6 cuốn. Quyển thứ nhất nổi tiếng nhất trên thế giới viết về 17 năm đầu đời của bà, I Know Why The Caged Bird Sings (1969), bà nói: “Đầu tiên người đời phải học cách chăm sóc chính mình để rồi có thể chăm sóc người khác. Đó là lý do làm cho “chim trong lồng hót”. Với tự truyện này bà được xem là một trong những phụ nữ Mỹ gốc Phi đầu tiên dám công khai bạch hóa đời riêng của mình. Maya Angelou được chọn làm “Người Phụ Nữ của Năm 76” (Woman of the Year) về Truyền Thông của tạp chí Ladies’ Home Journal. Giải Thưởng Matrix của Hội Women in Communications, Inc. vào năm 1983, Giải Thưởng Văn Chương North Carolina vào năm 1987, Giải Thưởng Candace 1990 của Cơ Quan Liên Minh Quốc Gia Phụ Nữ Da Đen (The National Coalition of Black Women).
 
Hai bài thơ của bà, bài On The Pulse of Morning được chính bà đọc trong lễ Tuyên Thệ Nhậm Chức của Tổng Thống Bill Clinton năm 1993. Bài thơ Still I Rise được ông Nelson Mandela đọc tại lễ nhậm chức Tổng Thống Nam Phi của ông năm 1994. Chủ đề nổi bật trong các tác phẩm của bà nói về sự gian khổ bất công, tệ nạn phân biệt chủng tộc, đồng thời toát lên niềm hy vọng, tính quả cảm, kiên trì, tự tin, nhờ đó mà người ta vượt qua nghịch cảnh để vươn lên, chiến thắng cái ác, nhìn nhau bằng tình thương và tha thứ. Tất nhiên Maya Angelou cũng có những bài thơ viết về tình yêu, những mối tình nở ra rực rỡ nhưng bị vùi dập trong mưa bão cuộc đời.
 
Thơ dịch từ MAYA ANGELOU
 
 
NHỮNG GIỌT LỆ
 
Những giọt lệ
như những mảnh thủy tinh vỡ
của một tâm hồn rách rưới. khổ đau
hay tiếng khóc than
của khúc hát thiên nga
giã từ giấc mộng hư...
 
(Nguyễn Xuân Thiệp dịch)
 
 
THÁNG MƯỜI MUỘN
 
Từ từ
một cách cẩn thận
những chiếc lá mùa thu
rắc xuống
những âm thanh bé nhỏ của nỗi chết
Và bầu trời thì
no nê
với những hoàng hôn tím đỏ
những bình minh ửng hồng
bầu trời ấy
bị khuấy đục không ngừng
trong màu xám của những mạng nhện
rồi đổi sang màu đen
yên nghỉ
 
Chỉ những người yêu nhau
nhìn thấy mùa thu
một dấu hiệu tận cùng
như một báo hiệu sỗ sàng
cho những ai không hay biết
rằng đã tới lúc chấm dứt
cho một khởi đầu khác.
 
(Nguyễn Xuân Thiệp dịch)
 
CUỘC ĐỜI TÔI BỖNG HÓA XANH XAO
 
Mùa hè của tôi đã đi qua
Những ngày vàng nắng đã tắt
Những bình minh màu hồng
khi thức giấc bên anh
giờ đây đã chuyển qua màu xám
Và cuộc đời tôi bỗng hóa xanh xao
 
Những thảm cỏ xanh ngày xưa
giờ đầy sương giá
con chim màu đỏ đã bay. về phương nam
còn lại một mình
cuộc đời tôi bỗng hóa xanh xao
 
ai đó nói rằng
mùa đông rồi cũng sẽ qua
mùa xuân báo hiệu
rồi hạ hồng sẽ tới thôi
nhưng cho tới khi nào
thấy anh nằm trên cỏ mượt
cuộc đời tôi vẫn xanh xao
 
(Nguyễn Xuân Thiệp dịch)
 
VÀ TÔI VẪN ĐỨNG LÊN
 
Các người có thể viết đời tôi trong truyện sử bằng những lời cay đắng và những                                                                                                          dối trá điêu ngoa,
Các người có thể giẫm tôi xuống đất đen, nhưng tôi vẫn sẽ đứng lên từ bụi đất...
Như mặt trăng mặt trời và thủy triều miên viễn,
Như hy vọng vút cao, tôi đứng lên...
Các người có thể giết tôi bằng sự thù ghét,
Nhưng tôi – như khí trời – vẫn sẽ đứng lên
Từ những túp lều của sự tủi hổ trong lịch sử – tôi đứng lên
Từ một quá khứ bắt rễ trong khổ đau – tôi đứng lên
Tôi là một mặt biển đen, dậy sóng và trải rộng mênh mông, tôi là thủy triều trào dâng
 Mang cho đời những tặng phẩm do tổ tiên chúng tôi trao lại, tôi chính là giấc mơ
 là hy vọng của những người nô lệ...
 
(Nguyễn Xuân Thiệp dịch một đoạn của bài ‘And Still I Rise’)
 
Nguồn: Phovanblog
  
TÔI HIỂU VÌ SAO CHIM TRONG LỒNG HÓT
 
Con chim tự do soãi trên lưng gió
Thả trôi mình lướt xuống cuối dòng
Nó nhúng cánh vào nắng hồng rực rỡ
Và nhận trời cao là thuộc riêng mình
 
Nhưng có con chim cuồng cẳng trong lồng
Không hình dung được mình ngoài then song
Cánh bị cắt ngắn, đôi chân bị cột
Còn sót tiếng ca trong cổ họng buồn
 
Tiếng ca chim lồng dội âm sợ hãi
Của điều không hiểu nhưng vẫn ước ao
Đồi ở xa xăm vọng nghe tiếng hát
Tiếng của chim lồng khao khát tự do
 
Con chim tự do nghĩ làn gió khác
Chú sâu béo tròn trên cỏ bình minh
Mùa gió đổi chiều hàng cây than thở
Gọi bầu trời cao là của riêng mình.
 
Đứng trên nấm mồ của những giấc mơ
Chiếc bóng chim lồng hét cơn mộng dữ
Cánh bị cắt ngắn, đôi chân bị cột
Còn sót tiếng ca trong cổ họng buồn
 
Tiếng ca chim lồng dội âm sợ hãi
Của điều không hiểu, nỗi lặng yên chờ
Đồi ở xa xăm vọng nghe tiếng hát
Tiếng của chim lồng khao khát tự do
 
(Trần Mộng Tú dịch)
 
 
HỌ TRỞ VỀ NHÀ
 
Họ trở về nhà, kể cho vợ nghe
rằng chưa bao giờ trong đời sống,
họ gặp một phụ nữ như tôi,
Nhưng… họ đều trở về nhà.
 
Họ nói nhà tôi sạch sẽ vô cùng,
mỗi lời tôi nói đều mang ý nghĩa,
và tôi có sắc khí huyền bí,
Nhưng… Họ đều trở về nhà.
 
Tất cả đàn ông đều khen ngợi tôi
thích tôi cười, bờ mông, sự dí dỏm
họ ở lại một, hai, ba ngày.
Nhưng mà…
 
(Ngu Yên dịch)
 
*Nguồn: Văn Việt
 
 
NGƯỜI PHỤ NỮ PHI THƯỜNG
 
Những người phụ nữ đẹp thường hay tự hỏi
đâu là bí mật của tôi
tôi không dễ thương hay có ba vòng đo của người mẫu
nên khi tôi bắt đầu nói với họ
họ cứ nghĩ rằng tôi nói dối
tôi nói
đó chỉ là những điều trong tầm tay của tôi
vòng hông của tôi, bước chân đong đưa của tôi
cái bĩu môi của tôi
tôi là một người phụ nữ
phi thường
người phụ nữ phi thường đó
là tôi
tôi bước vào một căn phòng
tỉnh bơ như không
và đến gần một chàng
những anh chàng hoặc vẫn đứng
hoặc khuỵu
Rồi họ cứ vây quanh tôi
như đàn ong thấy mật
tôi nói
ánh mắt tôi nồng nàn như lửa
và hàm răng tôi cười như tỏa nắng
sự đong đưa của vòng eo
niềm vui trong mỗi bước chân tôi
làm họ nghiêng ngả
tôi là một người phụ nữ
phi thường
người phụ nữ phi thường đó
là tôi

những người đàn ông ấy đã tự hỏi mình
họ tìm thấy gì ở tôi.
họ cố gắng rất nhiều nhưng không sao biết được
những bí ẩn của tôi
dù tôi cũng cố gắng chỉ cho họ
họ vẫn không thể thấy
tôi nói
nó ở trong cái ưỡn lưng tinh nghịch của tôi
mặt trời trong nụ cười tôi
sự bềnh bồng của hai bầu ngực
vẻ dịu dàng trong phong thái
của tôi
tôi là một người phụ nữ
phi thường
người phụ nữ phi thường đó
là tôi
bây giờ bạn hiểu
chỉ cần đầu của tôi tại sao không phải cúi
tôi không đong đưa hay nhún nhảy
hay cố nói thật lớn
khi bạn nhìn thấy tôi đi qua
nó làm bạn tự hào
tôi nói
mỗi một cái bén gót của tôi
hay lọn tóc loăn xoăn buông thả của tôi
lòng bàn tay ấm mồ hôi của tôi
nhu cầu tự chăm sóc của tôi
bởi vì tôi là một người phụ nữ
phi thường
người phụ nữ phi thường đó
là tôi
 
(Lê Vĩnh Tài dịch)
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong tập Bốn Mùa Trời và Đất, Márai Sándor cảm giác về mùa hè, …Tôi đứng trên ban công, giữa một vùng xanh, nghe tiếng rì rào thức dậy của cây cỏ. Mùa hè đây rồi, tôi nghĩ; và nó giống như một cảm xúc tràn ngập trong tôi, không khoan nhượng, và đầy những kỷ niệm giản dị… (Giáp Văn Chung dịch) Trong tản văn Hoa Nở Vì Ai, Vũ Hoàng Thư viết, …Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm… Và mùa hè trong truyện của Đặng Thơ Thơ, … Đó là lúc chín nhất của mùa hè. Những trái táo bắt đầu căng mật. Từ trong lá cây thoảng ra những ngọn gió màu xanh thẫm...Ở Cảnh Nhàn của Bạch Vân Cư Sĩ có thú sống, xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…, có lẽ thời của người, nước còn trong ao còn sạch.
Bạn đang nghe thấy gì trong khí hậu tháng Tư? / Tiếng kêu từ đáy huyệt cuối trời. / Tiếng gió xoáy những cột cờ tử thương tuẫn tiết. / Tiếng phố vỡ triệu mảnh thủy tinh cắt lồng ngực tháng tư rỉ máu mãi chưa khô. / Tiếng sóng hôi dao mùi hải tặc từ oan nghiệt một thời biển huyết. / Tiếng oan hồn dật dờ tìm về cố quận, đáy vực kia bầy cá hoang tảo mộ. / Tiếng hậu chấn từ tâm hồn con dân tháng Tư choàng lên thảng thốt. Dấu chàm xanh lưu xứ để nhận ra nhau. / Tiếng con bướm gáy trong giấc ngủ đôi bờ chiến tuyến. / Tiếng vô vọng của dòng thơ đớn đau, sỉ nhục trải dài trên đất đai tổ quốc. /Tiếng mong mỏi trên những dòng thơ đang vuốt mắt lịch sử, xin hãy chết yên, chết quên, và mở lòng ra ôm những vết thương, trồng lại bóng Quê Nhà…
“Chìm trong biển chết trôi tim người / Còn gì đâu tiếc thương xa xôi …” Chiếc tàu nhỏ rời bến Constantine, Algeria, chở Enrico Macias đến một nơi xa lạ, người lưu vong không bao giờ được phép trở về. Làm sao cánh chim di có thể quên lối cũ? Chiến tranh xua đuổi ông ra khỏi quê nhà. Tàu khởi hành không một người đưa tiễn. “Người tình ơi, ta xa nhau. Mượn đôi mắt em lên đường.” Với cây guitar làm hành trang, ông ghi lại, “J'ai quitté mon pays …”
Hãy tạm để những chuyện buồn nằm im dưới mâm cỗ ngày Tết, để ta chỉ được thấy màu xanh lá bánh chưng, màu đỏ ối ruột dưa hấu, màu vàng đỏ tung xòe trong những bao lì xì nhỏ, màu nắng chín nhấp nháy trên những trái quất… bây nhiêu đó có đủ để bạn đón hơi thở mới của đất trời? Hy vọng vậy để chúng ta được mọc lên như cỏ non trên khung rêu ngày tháng cũ. Bài thơ của Nguyễn Hồng Kiên tôi đọc được từ trang của trường Mầm Non Cự Khối, bài thơ được dạy cho các em lứa 4 tuổi, như một lời chúc tết hồn nhiên.
Cho nhân dân tôi, thức dậy trong bóng tối, những người hát bài ca im lặng, những người than thở trong im lặng, những người nổi giận trong im lặng, những người yêu nhau trong im lặng, lời cầu Nguyện cho nhân dân tôi, những người đi trên đường, chạy tất bật từ sáng đến tối, cho bữa ăn của người nghèo đói, hít thở khói và bụi, những người già trước tuổi, những người không bao giờ biết hát, những người không bao giờ biết cười, những người không bao giờ biết nói dối
Houston mùa hè nóng có thể nướng thịt trên mui xe hơi./ Họa sĩ bò dưới đất vẽ chân dung kiếm tiền đổi rượu./Nàng mẫu ngồi khép hở y phục lả lơi./ Đường nét sắc màu bỗng dưng tơi bời khung bố, trời đất sẽ vô cùng phẫn nộ, nếu đàn ông không thích đàn bà, nếu bàn tay cứ chăm chú vẽ./ Tao không kể hết chuyện để người đọc tự đoán. Xe cứu thương chuẩn bị hụ còi. Bác sĩ xuất hiện. Mày ôm bức tranh nằm thoi thóp . /Tao thấy hết từ đầu qua khe cửa phía sau.
Những bài thơ xuất sắc của Giáng Vân nằm ở biên giới giữa điều có thể nói và điều không thể nói ra. Thơ chị có nhiều đề tài, tình yêu, suy tư lịch sử, những xúc động mới về thế giới hiện nay. Đó là một loại thơ sâu kín, cắm rễ trong vùng tối đen của tiềm thức, nhưng hướng về phía ánh sáng. Giáng Vân không ngần ngại nói về sự bế tắc, sự cùng đường của xã hội, cái chết và sự diệt vong của con người. Trong tập thơ gồm 36 bài, những mảng tối được thấy rõ, sự buồn rầu, lo lắng, cảm giác phẫn nộ, nhưng chị nói nhiều hơn đến sự vượt qua. Chị tin vào tâm hồn. Thơ chị có hai nguồn mạch: những câu chuyện riêng tư và những nỗi lo âu của thời đại mình. Chị có những bài thơ đi tới chỗ tận cùng, nơi giao điểm của hai niềm cảm hứng, đó là một kiểu thơ trữ tình thời sự hiếm gặp hôm nay.
Nhà thơ Vũ Trọng Quang bảo mũi tên ấy bay hoài bay không tới. Làm sao bay kịp thời gian. Hoặc giả như vầy. Nơi tôi ngồi cố định, và. thời gian đi qua đi qua. Khi lời thơ vừa thốt lên là lúc tôi rơi mất thời gian. Không gian nào giữ những lời đi. Ở những bài thơ sau đây bạn có thể thấy được nơi thời gian và không gian gặp nhau trong nhịp lẫy tình cờ. đã ra đi là muôn đời ở lại…Bây giờ là bao giờ??? Bao giờ là bây giờ!!!, chiếc kim đồng hồ lẩn thẩn/ như con kiến già bò trên miệng chén… …Bạn cùng tôi như ai kia thập tự vác mình qua đông gió, cứu chuộc nỗi tàn phai của Màu thân thể ngó chừng cũng cũ cùng sự lãng quên muôn đời, để có thể trong thế giới siêu hình yên tĩnh của ta được an ủi Mưa trầm trầm dương thế/ Ngấm sâu miền âm gian… , dù mưa không dội sạch được những linh hồn run rẩy, và dẫu Đó là cánh cửa bí mật/ từng khép cửa linh hồn…
Nhịp lá rơi đang xô chèo dòng thu cập bến. Những con thuyền năm tháng sẽ tiếp tục dong buồm. Nơi chốn nào gọi là đáy đĩa mùa đi ơi Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh? Có phải là nơi Bình tàn thu vai phấn nghiêng rơi của thi nhân 80 năm trước? Hay trong cơn khát của mùa thu của Trang Thanh? Hay nơi dấu chân em lối vàng xưa của Lê Hoàng Anh? Hay nơi mùa trăng hóa quỳ vàng của Lê Vĩnh Tài? Hay nơi mặt đất dâng lên nuốt ánh mặt trời của Duyên? Hay nơi tiếng chạm của những viên đá tím của Nguyễn Thị Khánh Minh? Hay nơi rực rỡ hoàng hôn rực rỡ Đêm tháng 11 cuối cùng của Lê Chiều Giang?
Bài thơ này đăng trên Việt Báo vào ngày 10 tháng 8 2024. Người dịch nói rằng “…Bài này hợp với tinh thần Phật Giáo…” Tác giả Henry Wadsworth Longfellow là một nhà thơ nổi tiếng vào bậc nhất ở Mỹ trong thế kỷ 19. Trong tiểu sử không thấy nhắc ông có nghiên cứu về Phật Giáo. Có thể giải thích rằng những gì thuộc về chân lý, sự thật thì sẽ mãi mãi tồn tại, bất kể Đức Phật có thuyết giảng hay không.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.