Hôm nay,  

Ghế đá công viên

25/09/202217:03:00(Xem: 5787)

Tùy bút

bench

Khi băng ghế trong công viên của những thành phố lớn từ từ biến mất, tôi nhớ đến mấy câu trong bài hát của Trịnh Công Sơn.“Ghế đá công viên dời ra đường phố. Người già co ro, em bé lõa lồ.” Trịnh Công Sơn miêu tả hoàn cảnh xã hội của Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh, nhiều người bị trôi giạt không chỗ ngủ phải ngủ trên những băng ghế. Ngày nay ở nhiều thành phố lớn, kể cả Hoa Kỳ, tuy không có chiến tranh, nhưng do hoàn cảnh nghèo khó, mất chỗ ở, nhiều người vẫn phải ngủ trên những băng ghế trong công viên. Để bài trừ chuyện này, người ta dời băng ghế đi chỗ khác, dẹp bớt số ghế, làm những băng ghế ngắn lại, hay là gắn những chỗ dựa tay chắn ở giữa chiếc ghế dài.

Chỉ khi đi bộ lâu đã mỏi, tìm chỗ nghỉ chân người ta mới chú ý đến sự cần thiết của băng ghế. Những chiếc ghế dài này, còn là chỗ đọc sách, uống cà phê, ăn bánh, ăn kem, cho chim và sóc ăn, chờ người thân và bạn bè, hẹn hò với người tình và người không quen thân, chỗ trò chuyện bâng quơ về thời tiết với người qua đường, đánh cờ với bạn già, thậm chí nó có thể là chỗ trao đổi tài liệu của các tay gián điệp. Những ngày không biết làm gì hay không có chuyện gì để làm, băng ghế trong công viên là một chỗ có thể ngắm ông đi qua bà đi lại, cùng với quyển sách và cái ipod hay điện thoại là một nơi và cũng là một cách giết thì giờ rẻ tiền và hữu hiệu.

Băng ghế còn là nơi lưu giữ kỷ niệm. Cả vui lẫn buồn.

Phần nhiều, băng ghế được dùng để vinh danh người đã khuất, đôi khi tưởng niệm thú cưng. Ở vùng tôi ở, có lúc muốn tăng ngân quỹ mà không muốn tăng tiền thuế, quan chức kêu gọi người ta “bảo trợ” một chiếc ghế. Đóng một số tiền sẽ được gắn cái bảng có khắc một số chữ ấn định, với nội dung do người bảo trợ chọn. Có người, khi người thân qua đời, không muốn nhận phúng điếu tiền hay hoa, đã đề nghị người phúng điếu bảo trợ một chiếc ghế đặt ở công viên hay một chỗ nào đó được định trước. Số tiền bảo trợ ghế thay đổi tùy nơi chiếc ghế được đặt. Ở công viên Central Park của thành phố New York, những nơi đông người qua lại, hoặc có vị trí “đắc địa” như trước bờ hồ, hoặc những chỗ đẹp và nổi tiếng (thí dụ như dọc theo hai bên quảng trường nơi có tượng của các nhà văn nhà thơ danh tiếng), số tiền không nhỏ, vài chục ngàn đô la là chuyện thường, đã thế mà còn không còn ghế để bảo trợ. Thật là, từ đắc địa biến thành đắt giá.

Một nhà văn trong phim “5 to 7” đã nói: “Một số câu văn hay nhất của thành phố New York, bạn đọc sẽ không tìm thấy trong sách vở, phim ảnh, hay thoại kịch,… mà ở trên những băng ghế trong công viên Central Park. Đọc những băng ghế này, bạn sẽ hiểu những điều có ý nghĩa xảy ra trong mỗi cuộc đời.”

Những cái bảng nhỏ gắn trên ghế cho người đọc biết những người được vinh danh là ai, làm nghề gì, tuổi tác, sở thích của họ, có liên quan như thế nào với những người bảo trợ ghế. Họ là ai, đã làm gì để được vinh danh?  Đa số, họ là những người cha người mẹ làm tròn bổn phận. Đứa con trai cưng qua đời ở tuổi hai mươi. Người anh cũng là bạn tốt và là người cùng chạy bộ.

Có người bảo trợ ghế để ủng hộ tổ chức bảo tồn những cánh rừng đã bị tàn phá. Tấm bảng “Harriet Sat Here. Community Without Walls. House One. 2004” khiến tôi tò mò “Community Without Walls” (cộng đồng không có vách ngăn) là gì?  Hội này được thành lập với mục đích gì?  Đó là hội của các vị bô lão ở Princeton, tổ chức hỗ trợ lẫn nhau để giữ được cuộc sống tự do, có quyền tự quyết định cách sống và bảo đảm sự bình an. Có đôi vợ chồng bảo trợ ghế chỉ để tặng cho người đi bộ có chỗ nghỉ chân và thưởng thức cảnh đẹp ven bờ hồ Carnegie. Một băng ghế, thường có hoa trồng chung quanh; Mùa xuân có uất kim hương; Mùa thu có hoa cúc; tưởng niệm một người tên Jeanne, dành tặng cho những người bất hạnh đi đứng khó khăn. Có lần mới đây, tôi tình cờ bắt gặp một chàng trai đang quì gối cầu hôn với cô bạn gái, trong công viên bên cạnh cái băng ghế dưới mái hiên đầy hoa hồng. Mai sau, không biết chừng sẽ có một cái băng ghế tặng cho công viên và người bảo trợ có cái bảng kỷ niệm ngày hai người đính hôn.

Hình như, ngày xưa (trước năm 75) một số ghế trong công viên Tao Đàn được làm bằng đá cẩm thạch mài rất bóng. Loại ghế này khá đắt tiền và khá nặng, do đó từ trong công viên mà đem dời ra đường phố dĩ nhiên là không phải dễ dàng. Và phải chăng những chiếc ghế đá này đã trở thành biểu tượng cho giới sáng tác âm nhạc cho nên các nhạc sĩ Việt đều dùng cả cụm từ “ghế đá công viên” dù không phải băng ghế nào trong công viên cũng là ghế đá. Những bài hát về ghế đá công viên có Mùa Thu Paris, nhạc Phạm Duy, lời thơ Cung Trầm Tưởng, “Mùa Thu âm thầm. Bên vườn Lục Xâm. Ngồi quen ghế đá. Ngồi quen ghế đá. Không em ôi buốt giá từ tâm.”  Nhạc sĩ Anh Bằng:  “Anh còn nợ em. Công viên ghế đá. Công viên ghế đá. Lá đổ chiều êm.” Đây chỉ là vài thí dụ, còn nhiều nữa, bạn cứ dùng Google search sẽ tìm ra.

Ngày nay băng ghế được làm bằng nhiều loại vật liệu. Có băng ghế vật liệu được chế biến từ những cái đầu lọc phế thải của điếu thuốc. Có băng ghế được ghép bằng những khúc gỗ tròn từ chỗ ngồi đến lưng ghế và chỗ tựa tay. Loại ghế này bắt chước kiểu băng ghế của những người sống ở vùng nông thôn hay rừng núi. Gỗ được tẩm chất bảo quản để tránh mục rữa theo thời tiết. Có băng ghế là hai khúc gỗ tròn, chỗ để ngồi là một miếng gỗ dài và rất dày đặt lên trên hai chân ghế gỗ tròn. Đánh lớp sơn bóng thật dày, băng ghế này có thể là đồ trang trí cho một sảnh đường sang trọng tôi nhiều lần nhìn thấy, gần đây nhất là trong phòng khách của hãng sản xuất rượu bourbon Angel’s Envy ở Kentucky. Thời kim khí, băng ghế được làm bằng sắt thép có hoa văn cầu kỳ nay trở thành ghế cổ đắt giá.



Trong Central Park, có một băng ghế vinh danh ông Waldo Hutchins (1822-1891). Băng ghế này làm bằng đá cẩm thạch trắng, cao 1.2 mét, rộng hơn 8 mét và là chiếc ghế đá lớn nhất trong công viên Central Park. Ông Hutchins là nghị sĩ Hoa Kỳ và trong ban Giám Đốc Điều Hành Central Park. Ghế do con trai ông Hutchins tặng công viên năm 1932. Trên lưng ghế có hàng chữ Latin “Alteri Vivas Oportet Si Vis Tibi Vivere,” dịch ra tiếng Anh, “You should live for another if you would live for yourself.”  Câu này của Seneca, triết gia La Mã, có nghĩa là bạn nên đối xử tử tế với người khác cũng như đối xử với chính mình. Nếu ngồi lên băng ghế bạn sẽ nhìn thấy một hàng chữ khác ở dưới chân, “Ne Diruatur Fuga Temporum” tiếng Anh là “Let it not be destroyed by the passage of time.”  Câu này có nghĩa là “xin đừng để nó bị hư hoại với thời gian” của tác giả vô danh. Có một giai thoại đáng yêu về băng ghế này. Lúc thiết kế băng ghế, người ta vô tình khắc sai một lỗi chính tả, có chữ “T” đằng sau chữ “SI.” 

Năm 2004, một người qua đường nhìn thấy lỗi này đã dùng bút lông bôi đen chữ “T.”  Một học giả tiếng Latin khác nhìn thấy, viết thư trình bày và giải thích lỗi chính tả này với ban điều hành Central Park và người ta đã sửa chữa. Điều này chứng tỏ là nhiều người đọc băng ghế, kể cả học giả La Tinh.

Một vài câu văn hay tìm thấy trên băng ghế. “Tôi sẽ nâng niu trái tim bạn, nhẹ nhàng hơn cả trái tim tôi.”  “Em là hình ảnh của đóa hồng ngời sáng trong tim anh như ánh lửa từ bên trong cái đèn lồng” câu này được trích trong quyển “Hoàng Tử Bé.” “Chỉ sống thôi là chưa đủ, con bướm nói. Người ta cần phải có ánh nắng, tự do, và những bông hoa nho nhỏ.”  Câu này của Hans Christian Andersen.

Băng ghế từ từ biến mất trong những thành phố lớn, bởi vì đất là vàng. Băng ghế trong công viên được thay thế bằng những chiếc ghế trước sân hay trên vỉa hè của những quán cà phê, hay nhà hàng. Khi muốn nghỉ chân bạn phải đến các cửa tiệm này và tệ nhất cũng phải mua ly cà phê, ly nước ngọt. Băng ghế cũng biến mất vì từ từ hư hại với thời gian và thời tiết. Câu văn “Ne Diruatur Fuga Temporum” trở nên chí lý hơn bao giờ. Băng ghế cũng biến mất vì bị dời đi trái phép hoặc là đánh cắp. Bạn đừng ngạc nhiên khi thấy nhiều nơi ở Hoa Kỳ, băng ghế và bàn của những trạm dừng chân dọc đường cao tốc, và thậm chí trong công viên lớn, được gắn đinh ốc vào các bệ xi măng, hay gắn xiềng xích dưới chân.

Băng ghế là một nơi rất quan trọng trong nghệ thuật phim ảnh. Đây là một cách dựng cảnh rất dễ làm và ít tốn tiền bên cạnh cảnh ngồi trong xe hơi hay xe taxi. Đây là chỗ lý tưởng để diễn viên độc thoại hoặc là họ phải nói với nhau những điều không dễ nói bởi vì họ không phải nhìn mặt nhau. Bạn chắc không quên cảnh Forrest Gump ngồi kể chuyện đời mình, bắt đầu bằng câu nói đầy triết lý, “mẹ tôi nói là cuộc đời mình nhiều khi cũng giống như hộp kẹo sô cô la. Mình đâu có biết là trong hộp kẹo có bao nhiêu mùi vị.”  Tôi thích cảnh băng ghế trong phim “Love, Actually” do Liam Nelson đóng vai Daniel, trò chuyện với cậu bé Samuel, con riêng của vợ. Phải mất một thời gian Daniel mới có thể làm thân với Samuel, và cậu bé chừng bảy tuổi tâm sự, nỗi buồn lớn nhất của cậu, bên cạnh bị mất mẹ, là cậu yêu đơn phương với một cô bé cùng lớp. Vẻ ngây thơ của cậu khi nói về nỗi đau rất người lớn này làm người xem vừa cảm động vừa buồn cười. Dễ thương ở chỗ Daniel quan tâm và thông cảm nỗi buồn của cậu bé khi chính ông cũng mang nỗi buồn vợ chết.

Đoạn phim có cảnh băng ghế trong công viên tôi thích nhất là đoạn phim trong “Paterson.”  Adam Driver trong vai Paterson, anh tài xế lái xe buýt cho New Jersey Transit, ra ngồi ở băng ghế đối diện với thác Great Falls, nhìn thấy con chim cốc đậu trên gốc cây gãy, trong hồ của thác nước. Anh đang buồn vì tập thơ anh sáng tác nhiều năm, chuẩn bị đem xuất bản, đã bị con chó cưng xé tan nát. Nơi đây anh gặp một nhà thơ Nhật Bản đến chơi thành phố Paterson vì ông ta hâm mộ nhà thơ William Carlos Williams. Paterson không thú nhận mình làm thơ, chỉ nói mình làm nghề lái xe buýt. Nhà thơ Nhật là người chủ động cuộc trò chuyện. Ông ta nhắc đến Allen Ginsberg, Frank O’Hara, là những nhà thơ địa phương đều có nghề tay trái. Sự am hiểu về thơ của Paterson khiến nhà thơ Nhật cảm mến, ông tặng Paterson một quyển sổ chép thơ. Nhà thơ Nhật nói tiếp. “Đôi khi trang giấy trống lại chứa đầy cơ hội cho những điều có thể xảy ra. Thơ của tôi chỉ viết bằng tiếng Nhật. Không có bản dịch. Đọc thơ dịch, tôi có cảm tưởng như đi tắm mà vẫn mặc áo mưa.”  Quay lưng đi như chợt ngộ ra Paterson cũng là người làm thơ, ông Nhật ngoái lại nhìn và nói: “À há!” Nhà thơ Nhật đi rồi, vẫn còn ngồi trên băng ghế trong công viên, Paterson lấy quyển sổ mới được tặng ra và bắt đầu viết một bài thơ mới.

Băng ghế là nơi lưu trữ kỷ niệm cả vui lẫn buồn. Đọc những hàng chữ trên băng ghế bạn sẽ nhận ra nhiều điều đầy ý nghĩa trong cuộc sống hằng ngày.

 

– Nguyễn Thị Hải Hà

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.