Hôm nay,  

Mùa thu đến tự bao giờ?

01/10/202211:26:00(Xem: 3596)

Tản mạn

autumn leave

Có bạn nói mùa thu đã đến từ hơn tháng trước, có bạn bảo mùa thu mới bắt đầu vài mấy hôm nay. Ai sai, ai đúng? Mùa thu bắt đầu tự ngày nào trong năm?

 

Thưa theo Âm lịch (ÂL) thì mùa thu bắt đầu vào ngày Lập Thu. Nhưng ngày Lập Thu là ngày nào, mùng mấy tháng mấy?

 

Thưa ÂL chia một năm ra làm 24 giai đoạn, hay 24 tiết (solar terms). Mỗi tiết kéo dài khoảng hơn 15 ngày. Tiết thứ 13 trong năm được gọi là tiết Lập Thu. Ngày thứ nhất của tiết thứ 13 ấy chính là ngày bắt đầu của mùa thu, gọi là ngày Lập Thu. Nhưng ngày đó là ngày mùng mấy trong Âm lịch ?  Và làm thế nào để biết nó rớt vào ngày nào?

 

Thưa đã đến lúc phải mở một dấu ngoặc ở đây. Âm lịch vừa dựa vào chuyển động của mặt trăng quanh trái đất vừa dựa vào vị trí của trái đất quanh mặt trời. Vì thế tiếng Anh gọi ÂL hay lịch Ta là luni-solar calendar, vừa nhật vừa nguyệt. Phải dựa vào mặt trời thì ÂL mới có thể phản ánh đúng khí hậu, mùa màng trên trái đất.

 

Để định ngày và tháng thì ÂL dựa vào mặt trăng. Ngày mà mặt trăng xoay đến vị trí giữa trái đất và mặt trời thì gọi là ngày mùng 1, hay ngày sóc (new moon), là ngày bắt đầu của một tháng. Mười bốn ngày sau, khi mặt trăng xoay đến phía bên kia của trái đất, thì là ngày rằm, ngày 15, hay ngày vọng (full moon). Chu kỳ của măt trăng quanh trái đất là 29 ngày rưỡi. Vì thế một tháng ÂL có khi có 29, có khi có 30 ngày.

 

Còn việc định năm thì ÂL, giống như DL, phải dựa vào mặt trời. Vị trí trên quỹ đạo quanh mặt trời xác định trục quay trái đất lúc ấy đang ngả về phương hướng nào, hướng về hay nghiêng xa khỏi mặt trời. Chính cái phương hướng khác nhau ấy làm cho khí hậu thay đổi theo mùa màng. Năm cũ chấm dứt và năm mới bắt đầu khi trái đất trở về vị trí cũ trên quỹ đạo của nó. Chu kỳ ấy là mỗi 365 ngày (+1/4). Điều này ai cũng biết. Nhưng một năm của Âm lịch bắt đầu vào ngày nào? Có phải là mùng một tháng giêng hay mùng một Tết Nguyên Đán không? Thưa, đứng trên cương vị khí tiết mùa màng, ngày đầu năm ÂL không phải là ngày mùng 1 tháng giêng. Mà bắt đầu vào ngày đầu tiên của tiết Lập Xuân. Đó là ngày mà khi nhìn từ trái đất thì mặt trời nằm ở vị trí 315 độ trên đường hoàng đạo. Ngày đó trùng hợp với ngày 3 hoặc 4 tháng 2 của Dương lịch, năm này sang năm khác đều như thế, và không can hệ gì đến chuyện lúc đó mặt trăng tròn hay khuyết.

 

Như đã nói ở trên, tiết Lập Thu là tiết thứ 13 trong năm. Sau 12 tiết, hay 12 x 15.3 = 183 ngày, thì ngày thứ 184 sẽ là ngày bắt đầu của tiết Lập Thu. Tính từ ngày 3 tháng 2 cộng thêm 184 ngày thì mùa thu bắt đầu vào ngày 7 hay 8 tháng 8 Dương lịch, và kéo dài khoảng 91 ngày. Đến ngày 6 tháng 11 thì mùa thu chấm dứt, nhường bước cho mùa đông. Ngày chính giữa của mùa thu ÂL gọi là ngày Thu Phân, thường rơi vào ngày 22 hay 23 tháng 9. Ngày ấy đêm và ngày dài bằng nhau. Lịch Tây gọi đó là ngày Autumnal Equinox, và quy định đó là ngày bắt đầu của mùa thu, sau lịch Ta 45 ngày.

Tóm lại, theo lịch Ta thì mùa thu bắt đầu ngày 7 hay 8 tháng 8. Theo lịch Tây thì ngày 22 hay 23 tháng 9. Ai đúng ai sai? Thưa chẳng ai đúng chẳng ai sai. Chỉ là vấn đề quy ước tên gọi. Nhưng có lẽ gọi mùa màng theo lịch Tây hợp lý hơn vì đầu tháng 8 ở Bắc Bán Cầu khí hậu còn nóng bức. Phải đến cuối tháng 9 thì khí trời mới mát mẻ, cây lá mới bắt đầu đổi mầu, trời mới sửa soạn khoác lên người tấm áo vào thu.

 

Thế ngộ nhỡ không có lịch, như các bác nông dân ngày xưa lo việc cấy trồng thì làm sao mà biết thu về hay chưa?

 

Thưa có thể nhìn trời sao mà biết: Khi ngôi sao ở cái đuôi của chòm sao Mục Phu (Bootes) hình con diều nằm ở chính hướng tây trên đường chân trời thì đã đến ngày Thu phân rồi vậy.

Ngày bắt đầu của 4 mùa theo Âm lịch và Dương lịch thì như sau (năm này sang năm khác không thay đổi, chỉ xê dịch một đôi ngày tùy theo chu trình của trái đất): Theo Âm lịch thì là các ngày Lập Xuân, Lập Hạ, Lập Thu và Lập Đông, tức là các ngày 03/2, 05/5, 07/8, và 07/11 DL. Lịch Tây thì cho là 4 mùa bắt đầu vào các ngày Xuân Phân (Spring Equinox), Hạ Chí (Summer Solstice), Thu Phân (Autumnal Equinox), và Đông Chí (Winter Solstice), tức là các ngày 21/3, 21/6, 22/9 và 22/12. Ngày bắt đầu của mỗi mùa theo DL lại là ngày chính giữa của mùa ấy theo ÂL.

 

Tô Thẩm Huy

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.