Hôm nay,  

Ba giọt cà phê bé tí...

10/5/202220:54:00(View: 3239)

Truyện dịch

woman-sorrow-38387917


Bình lọc cà phê nhãn hiệu Ý đang sôi sùng sục trên bếp ga. Amanda tắt bếp, cầm cái quai bằng nhựa đen, rồi đến bàn, chế cà phê vào tách, đặt bình lọc lên trên miếng lót bằng kim loại. Nàng kéo cái ghế màu hồng hoa tulip kêu ken két trên nền gạch, ngồi xuống, bỏ một viên đường vào tách, nhìn nó tan dần, với lấy cái muỗng nhỏ trong lọ sành và khuấy cà phê. Bàn tay nàng run run, cái muỗng tuột ra. Cà phê bắn lên, và ba giọt bé xíu rơi trên bàn gỗ trắng. Amanda đặt ngón tay trên một giọt, nhìn đăm đăm. Đồng hồ treo tường chỉ 9h05.

 

Nàng chọn cái túi du lịch bằng da cũ kỹ, có dây khóa kéo một bên. Cái túi này từng đi Việt Nam, đi Pouilles, đi Phi Luật Tân, đã đựng bao nhiêu là vật lưu niệm. Những cái tượng nhỏ, khăn quàng, mứt kẹo... là những món quà ngộ nghĩnh cho cha mẹ và cô em gái của nàng. Nàng mở tủ, lấy chiếc váy màu hoa cà có dây đeo nhỏ, và váy màu đen nữa, dáng nàng thật thanh tao khi mặc hai cái này. Nàng đặt chúng vào túi, rồi thêm ít áo quần nữa. Và kéo khóa cái túi lại, khi cầm lên, nàng có cảm giác sần sùi trên tay. Rồi tiếng ổ khóa kêu cách khi nàng đóng cửa lại. Một âm thanh khô khan, không vang. Leo xuống hai tầng lầu mới đến cửa ra vào. Amanda đẩy cánh cửa nặng chịch ra, không khí bên ngoài thật mát dịu, nàng kéo cổ áo khoác cao lên. Bước chân vang trên vỉa hè dọc theo khóm hoa cẩm tú cầu. Nàng hít một cách mê say hương của hoa xoan và hoa nhài Nhật Bản. Bầu trời xanh mướt, một màu xanh thẫm. Thật là một ngày vô cùng tươi đẹp đây.

 

Khi nàng bước đi trên đường, một cô bé nhìn nàng và mỉm cười, rồi một người đàn ông nhìn ngắm nàng hơi lâu. Là một anh chàng tóc nâu xoắn thật điển trai, tóc giống hệt Marc khi anh ta còn trai trẻ. Chiếc taxi đang đậu ngay đây, chờ nàng.

 

– Xin chào, vui lòng cho tôi đến phi trường.

 

– Dạ vâng ạ, ngay tức thì đây ạ – người tài xế tươi cười trả lời.

 

Khi nàng vào trong xe, giọng ông ta hỏi dịu dàng:

 

– Trời hôm nay đẹp nhỉ. Cô đi nghỉ hè à?

 

Xe chạy lướt qua các khu phố. Ở đại lộ chính, những gian hàng chất đầy đồ dệt và đồ vật trang trí được bày biện trên vỉa hè. Vài người khách bộ hành, đi ngang thoáng qua, ngừng lại, rồi lục tìm xem có thể sở hữu được một đồ vật nào đó không. Một chiếc gắn máy Vespa vượt qua họ. Xe màu xanh nhạt. Là xe của Fabrizio, anh họ của nàng lúc anh ta hai mươi tuổi, có cái đèn pha tròn to bự gắn ở phía trước xe. Nàng thì ngồi phía sau, họ chạy hết tốc lực trên các đường phố ở Naples. Mỗi khi anh nhấn ga, cái váy của nàng bay bổng lên, nàng cười vang, ôm chặt lấy anh, và nghe mùi chiếc áo khoác ngắn bằng da của anh.

 

Xe taxi vào một con hẻm, quẹo trái và đi dọc theo quảng trường. Hàng cây đoan chưa trổ bông. Một cô bé ngồi ở bờ một đài phun nước và vỗ nước vào đôi tay bé. Mỗi khi có nước bắn ra, cô bé cười như nắc nẻ. Bé Emma mặc áo đầm đỏ có dây đeo, mái tóc bù xù, hai má hồng lên vì háo hức. Những tiếng la hét vui cười của bé xen lẫn với tiếng la của Louis, cậu anh sinh đôi của bé, mũ thì đội lệch, kiếm thì đeo chéo qua vai, thật tuyệt trong vai hải tặc của bé. Những màn chơi tát nước trong vườn biệt thự Lilas. Tấm thân nhỏ bé của chúng mà nàng thọc léc, ghì chặt rồi ôm hôn khắp người chúng.  "Mẹ ơi, Mẹ ơi", những tiếng gọi đầy lo âu vang dội khắp ngôi nhà. Những bước chân vội vàng của chúng trên cầu thang bằng đá. Nhịp tim đập nhanh của chúng vang lên sát làn da của nàng. Rồi "mọi việc ổn thôi, các con ạ, mẹ đây nè". Giờ đây chúng thay đổi nhiều quá. Những giờ phút thân mật, âu yếm bên nhau bây giờ đã xa, chỉ còn sự trống vắng, sự lặng thinh. Đã bao lâu rồi các con và nàng chưa từng cười đùa với nhau hoặc nói chuyện cùng nhau nhỉ? Vừa về đến nhà, chúng trả lời mẹ một cách nhát gừng rồi chui vào phòng. Đó là cái hang bí mật của chúng, nơi chúng liên lạc với bạn bè qua điện thoại và máy vi tính. Chúng đang sống trong thế giới của chúng. Không có chỗ cho nàng. Bị ra rìa, bỏ rơi.

 

Xe ngừng trước sân nhà thờ. Cái cổng hình vòng cung, cánh cửa gỗ có hình thập giá, nơi đã cử hành lễ cưới của nàng và anh. Chiếc áo váy dài trắng tinh, bó hoa hồng trên đôi tay mang bao tay trắng, những cánh hoa đỏ rơi trên nền đất, chiếc khăn voan bằng tuyn rộng dài phất phơ theo gió, xoay xoay rồi bay đi mất.

 

Xe lại tiếp tục lướt nhanh, chui vào đường hầm, rồi một đường hầm nữa. Ánh sáng, màn tối đến, ánh sáng, rồi tối.

 

Từ lúc nào nàng đã không còn yêu anh nữa? Không có ngày tháng, không có thời điểm nhất định. Những câu nói gây tổn thương, những lần vắng nhà lặp đi lặp lại, những điều ẩn ý. Một chút rạn vỡ. Rồi dần dần lớn nhanh ra. Đến một ngày thì đã quá trễ để hàn gắn lại vết nứt. Rồi chỉ là sự im lặng, và cảm giác trống vắng, chôn thật sâu, ngay đây, ngay bên trong thân thể nàng.

 

Khi Marc được thăng chức, họ đã không còn ở biệt thự Lilas nữa. Trong khu nhà hiện nay, nàng không quen biết ai cả. Đôi lúc nàng chỉ gặp người này người nọ. Có khi gặp cô thiếu nữ có mái tóc dài màu hung ở cùng tầng lầu với gia đình nàng, cô gái chơi đàn cello. Nàng thích điệu nhạc êm dịu, u sầu ấy. Rồi lúc xưa ở Prague, ở quảng trường Phố Cổ, một phụ nữ cũng kéo đàn cello , và một người đàn ông ngâm thơ. Dây đàn lướt theo nhịp của vần thơ. Đó là lần đầu tiên nàng đi du lịch mà không có cha mẹ đi cùng, với cô bạn Cathy...

 

Một tiếng còi hú vang lên từ xa. Rồi gần hơn, to dần lên, và trở nên inh ỏi. Chiếc xe cứu thương chat vượt qua họ, trên mui xe đèn đỏ báo hiệu chớp liên hồi. Cái áo bờ lu khi nàng là y tá. Những hành lang dài của bệnh viện, đôi giày trắng bằng chất dẻo kêu kin kít trên nền thảm nhựa, cái xe chuyển đồ vật chất đầy băng gạc, kim chích, thuốc thang nàng đẩy từ phòng này qua phòng kia, nụ cười của những bệnh nhân, những lần nghỉ giải lao, những trận cười ngặt nghẽo với cô bạn Rita có tài kể chuyện rất có duyên.

 

Đường sá bây giờ lại vắng vẻ. Một đường thẳng tắp thật dài . Những thảm cỏ và những khoảng đất trống, không có nhà ở.

 

– Trạm nào đây cô? – Người tài xế hỏi.

 

– Trạm 1.

 

Ở phi trường, người người đi đi lại lại liên tục. Chuyến đến, chuyến đi. Người thì đẩy xe chở hàng đầy nhóc hành lý, kẻ thì kéo vali có bánh xe. Nàng tiến đến bảng ghi các chuyến bay, tìm số chuyến của mình. Juárez Mexico, Cửa số 7.

 

Người nữ nhân viên ở quầy làm thủ tục hỏi nàng:

 

– Cô có hành lý để gởi không?

 

– Tôi chỉ có một hành lý.

 

Túi du lịch màu nâu to đùng đã mòn nhiều vì những lần nàng đi chu du khắp nơi rung rinh trên băng tải. Nàng nhìn nó trượt đi xa, rồi mất hút. Nàng bước qua các cổng kiểm soát, rồi đến ngồi ở chiếc ghế nhìn ra khung cửa kính nhìn ra đường băng và quan sát những máy bay liên tục lăn qua, lướt lại. Một chiếc lăn bánh dần vào đường bay, định tọa độ, ngừng lại, rồi tăng tốc, nghiêng cánh và bay vút lên. Rất nhanh sau đó sẽ chỉ còn là một chấm nhỏ, để lại phía sau những vệt trắng dài mảnh như sợi chỉ.

 

Trên loa phóng thanh vang lên tiếng gọi: "Xin mời quý khách đi Juárez Mexico bước ra cửa để lên tàu".

 

Nàng bước đi, trước mặt là một hành lang dài. Nàng ngừng bước, quay lại, và do dự. Bước vài bước trên đường bay, rồi leo lên cầu thang máy bay. Ngay cửa vào tàu, cô tiếp viên mỉm cười chào nàng. Nàng tiến đến ghế ngồi của mình, đặt túi đeo tay xuống và ngồi cạnh cửa sổ.

 

Qua cửa kính máy bay, những chi tiết mờ dần, và mặt đất chỉ còn là một bức tranh ghép mảnh. Những hình vuông màu nâu, xanh lá, vang càng lúc càng trở nên nhỏ dần, rồi biến hắn dưới mảng mây bông phơn phớt xanh trời...

 

Amanda nhìn đồng hồ đeo tay. Vẫn còn quá sớm. Louis sẽ về nhà trước nhất. Nó có ngạc nhiên khi thấy vắng mẹ không nhỉ? Chắc là ngạc nhiên hơn khi thấy màn cửa sổ phòng khách chưa được kéo ra. Nó sẽ mở tủ lạnh, lấy chai sữa chua uống rồi chui vô hang của nó. Mười lăm phút sau là đến lượt Emma. Nó sẽ vào bếp, lấy cái tô đồ ngũ cốc ướp mật ong rồi chan sữa lên. Ăn xong, nó sẽ để cái tô không trên bàn, đến gõ cửa phòng anh nó và hỏi: "Anh biết Mẹ đâu không?" Giọng của nó không hề biểu lộ một mảy may lo âu nào. Lát nữa kìa, rất rất lâu sau đó, khi sắp đến giờ cơm tối, thì đứa này rồi đứa kia sẽ tìm cách nói chuyện với nàng qua điện thoại. Những mẩu tin gãy gọn, vẻ bực dọc: "Này Mẹ, Mẹ ạ, Mẹ đang ở đâu vậy?"  "Mẹ ơi, Mẹ có thể trả lời con không? Mẹ đang làm gì vậy?" Và rồi, đến phiên Marc về. Tiếng leng keng của chùm chìa khóa trong cái đĩa bằng thủy tinh.

 

Anh ấy sẽ ngạc nhiên vì không nghe thấy mùi thức ăn trong bếp và cái bàn trống trơn. Anh sẽ gọi: "Amanda? Này, Amanda? Louis? Emma?" Không nghe ai trả lời cả, anh sẽ đến phòng của chúng. Bọn trẻ sẽ bảo rằng nàng không có trong đó.

 

Nổi cáu, anh sẽ tìm cách liên lạc với nàng qua điện thoại cầm tay của nàng. Một, rồi hai, ba, bốn tin nhắn.

 

Cho đến bao giờ thì sự tức giận sẽ phải nhường cho sự lo âu nhỉ? Lát nữa, lúc trời tối dần? Sáng mai, anh ấy sẽ qua hỏi bên nhà hàng xóm chăng? Rồi anh có đến báo cảnh sát không? Họ sẽ bảo anh phải chờ bốn mươi tám giờ đồng hồ, thời hạn do luật lệ định ra, rồi sau đó mới bắt đầu cuộc tìm kiếm. Rồi thời gian sẽ qua đi. Nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng. Rồi sẽ có những tấm áp phích nhỏ có dán hình của nàng niêm yết lên các bờ tường ở thành phố.

 

 Amanda, mất tích ngày 22 tháng 4.

 

Cửa ra vào mở ra, rồi đóng sập lại. Louis ném cặp ở hành lang rồi bước vào nhà bếp. Mẹ cậu ta ngồi đó, mắt nhìn bâng quơ vào khoảng không.

 

– Mẹ ơi, có gì ăn không mẹ? Con hy vọng rằng mẹ không quên là con có trận đấu bóng chuyền lúc 2 giờ chiều chứ mẹ?

 

Amanda ngước nhìn con trai. 

 

Đồng hồ trên tường chỉ 12g40. Trên bàn, ba giọt cà phê đã khô ran.

 

Sandra Dullin

(Tháilan dịch)

 

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.