Hôm nay,  

Mẹ Tôi Qua Đời (Trích Trong Cuốn A Woman’s Story)

14/10/202200:00:00(Xem: 3182)


1250

Bản dịch Anh ngữ: Tanya Leslie

Chuyển ngữ tiếng Việt: Ngu Yên

 

(A Woman’s Story là câu chuyện của Annie Ernaux "ảnh hưởng sâu sắc đến các bà mẹ và con gái, tuổi trẻ và tuổi già, ước mơ và hiện thực" (Kirkus Reviews). Sau cái chết của mẹ bà vì bệnh Alzheimer, Ernaux bắt đầu một cuộc hành trình đầy cam go xuyên thời gian, khi bà tìm cách nắm bắt một người phụ nữ thực sự. Ernaux viết: “Tôi tin rằng tôi đang viết về mẹ tôi bởi vì đến lượt tôi đưa bà vào thế giới.")

***

Vào thứ Hai ngày 7 tháng 4 từ nhà dành riêng cho người già cư ngụ nối liền với bệnh viện tại Pontoise, nơi tôi đã đưa bà vào ở, hai năm trước đây; y tá nói qua điện thoại: “Mẹ của cô đã qua đời sáng nay, sau khi ăn điểm tâm.” Lúc đó khoảng 10 giờ.

Lần đầu tiên cửa phòng của bà đóng lại. Thân thể đã được lau rửa sạch, một dải băng mỏng quấn quanh đầu và dưới cằm, đẩy tất cả vùng da đầy lên quanh mắt và miệng. Một tấm vải che từ thân lên đến vai, không thấy đôi bàn tay. Bà giống như một xác ướp nhỏ. Hai thành giường đã hạ xuống hai bên. Tôi muốn mặc cho bà chiếc áo ngủ trắng có viền móc mà bà đã mua cho đám tang của chính mình. Y tá nói, một trong đám nhân viên sẽ lo chuyện này, rồi lấy cây thánh giá được cất trong ngăn kéo cạnh giường, đặt lên ngực bà. Hai con vít để đóng hai cánh tay đồng vào thánh giá đã mất. Y tá không chắc họ có thể thay thế bằng vít khác. Không phải là chuyện quan trọng, cũng vậy thôi, tôi chỉ muốn mẹ có cây thánh giá của bà. Trên chiếc xe đẩy, có một bó hoa Thường Xuân mà tôi mang đến ngày hôm qua. Y tá đề nghị nên đi thẳng đến văn phòng hành chánh trong khi họ làm biên bảng kiểm kê đồ đạc cá nhân. Chỉ còn một ít: một bộ quần áo, một đôi giày mùa hè màu xanh, một máy cạo.

Tại văn phòng hành chánh, một phụ nữ trẻ hỏi tôi muốn gì. “Mẹ tôi mất sáng nay.” “Bà ấy đã đăng ký tại bệnh viện hay là một bệnh nhân dài hạn? Tên bà ấy là gì?” Cô ta xem xét tờ giấy rồi nở nụ cười nhạt nhẽo. Cô đã được thông báo. Đi lấy hồ sơ của mẹ tôi. Hỏi một số câu như, nơi bà sinh ra, địa chỉ cuối cùng của bà trước khi được nhận vào làm bệnh nhân dài hạn. Những chi tiết này đã có sẵn trong hồ sơ.

Trong phòng của mẹ tôi, một túi nhựa đựng đồ đạc của bà đã được đặt trên bàn cạnh giường ngủ. Y tá yêu cầu tôi ký tên vào bản kiểm kê. Tôi quyết định không giữ quần áo và đồ dùng của mẹ trong bệnh viện. Chỉ lấy ống quét khói nhỏ ở Savoyard từ phố Annecy và một bức tượng mà bà và cha tôi đã mua khi đi hành hương ở Lisieux. Bây giờ, tôi đang ở đây, mẹ tôi có thể được đưa vào nhà xác bệnh viện (theo thông tục, thi thể người quá cố chỉ được để trong phòng khoảng hai giờ sau khi tắt thở). Khi ra về, chợt nhìn thấy người phụ nữ ở chung phòng với mẹ. Bà ta đang ngồi trong văn phòng bà sơ, sau vách kính ngăn, với chiếc túi xách trên đùi. Y tá yêu cầu bà chờ ở đó cho đến khi thi thể mẹ tôi được chuyển đi nhà xác.

Chồng cũ đi cùng tôi đến gặp người lo dịch vụ tang lễ. Đàng sau những vòng hoa giả, một vài ghế bành xếp quanh bàn cà phê với vài cuốn tạp chí. Một người phụ tá đưa chúng tôi vào căn phòng nhỏ, hỏi những câu liên quan đến thời điểm mẹ tôi chết, nơi chôn cất, và chúng tôi có muốn dịch vụ hay không. Anh ta viết mọi thứ vào đơn đặt hàng, thỉnh thoảng bấm vào chiếc máy tính bỏ túi. Sau đó, đưa chúng tôi vào căn phòng tối không có cửa sổ, bật đèn sáng. Hàng chục chiếc quan tài đang đứng dựa vào tường. Anh giải thích: “Tất cả giá tiền đều đã tính luôn thuế.”  Ba trong số các quan tài đã được mở nắp để khách hàng có thể chọn màu lót bên trong. Tôi chọn quan tài bằng gỗ sồi vì mẹ tôi yêu thích cây này và luôn luôn muốn biết liệu đồ nội thất đã mua có phải làm bằng gỗ sồi hay không. Chồng cũ đề nghị lớp vải lót màu hoa cà. Anh tự hào, gần như hớn hở vì đã nhớ ra bà thường mặc chiếc áo cánh màu này. Tôi ký chi phiếu cho anh phụ tá. Công ty sẽ lo hết mọi chuyện, trừ việc cung cấp hoa. Về đến nhà vào khoảng giữa trưa, uống một ly rượu porto với chồng cũ. Đầu và bụng bắt đầu đau nhức.

Vào khoảng năm giờ, gọi điện thoại đến bệnh viện, hỏi thử tôi có thể dẫn hai đứa con trai đến thăm mẹ trong nhà xác. Cô gái trực tổng đài cho biết đã quá muộn. Nhà xác đóng cửa lúc bốn giờ rưỡi. Lái xe đi quanh khu vực mới trong thành phố gần bệnh viện, cố gắng tìm tiệm bán hoa mở cửa ngày thứ Hai. Hỏi hoa kèn trắng, nhưng người bán hàng khuyên không nên mua: Hoa này chỉ thích hợp cho trẻ em, có thể dùng cho các cô gái trẻ.

Tang lễ sẽ diễn ra thứ tư tuần sau. Đến bệnh viện với chồng cũ và hai đứa con trai. Nhà xác không có bảng chỉ dẫn, chúng tôi lạc đường trước khi phát hiện tòa nhà bê tông nằm bên bờ rìa của một cánh đồng. Một anh phụ tá mặc áo khoác trắng đang nói chuyện điện thoại. Ra dấu cho chúng tôi ngồi trong phòng đợi. Ngồi xuống dãy ghế sắp sát tường, đối diện nhà vệ sinh, ai đó đã để cửa mở. Tôi muốn gặp mẹ tôi một lần nữa và đặt lên ngực bà hai cành hoa Lê Nhật đã mang theo. Không biết liệu họ có cho chúng tôi xem thi thể lần cuối trước khi đóng nắp quan tài hay không? Người phụ tá tang lễ mà chúng tôi gặp trong cửa hàng, bước ra từ phòng bên cạnh và ân cần yêu cầu chúng tôi đi theo anh ta. Mẹ nằm trong quan tài, đầu ngửa ra sau, hai tay đan nhau trên cây thánh giá. Băng vải bó đã được gỡ bỏ. Bà mặc chiếc áo ngủ với đường viền bằng móc. Tấm vải liệm sa tanh đắp dài lên đến ngực. Đây là căn phòng lớn, trống trải với những vách tường bê tông. Không rõ ánh sáng yếu ớt từ đâu đến.

Người phụ tá thông báo chuyến viếng thăm đã chấm dứt, và đưa chúng tôi về lại phòng khách. Tôi cảm tưởng, anh đã đưa chúng tôi đi thăm, chỉ đơn giản để chứng minh công ty thực hiện nhiệm vụ một cách thỏa đáng. Chúng tôi lái xe băng qua khu vực mới của thành phố cho đến khi gặp nhà thờ, nằm bên cạnh trung tâm nghệ thuật. Phải đợi trước nhà thờ vì xe tang chưa đến. Bên kia đường, ai đó đã dùng hắc ín bôi nhọ trên mặt tiền siêu thị: “Tiền, hàng tiêu dùng, chính phủ là ba cột trụ của nạn kỳ thị chủng tộc.” Một vị linh mục bước đến: “Có phải mẹ của bà không?” Rồi hỏi thăm hai đứa con trai về đang học đại học ở đâu và học môn gì?

Một chiếc giường nhỏ trống, viền nhung đỏ xung quanh, đặt trên nền xi măng không, trước bàn thờ. Sau đó, những người lo tang lễ đặt quan tài mẹ tôi lên trên giường. Vị linh mục mở máy thu băng chơi nhạc organ. Chúng tôi là những người duy nhất hiện diện trong buổi lễ, không một ai quanh đây biết mẹ tôi. Vị linh mục ca khúc hát vịnh rồi nói về “đời sống vĩnh cửu,” và “sự phục sinhcủa người chị em”. Tôi muốn buổi lễ kéo dài mãi mãi, muốn làm nhiều việc nữa cho mẹ, nhiều bài hát hay hơn, nhiều nghi lễ. Nhạc organ lại bắt đầu, vị linh mục dập tắt những ngọn nến ở hai bên quan tài.

Ngay sau buổi lễ, xe tang rời đi Yvetot ở Normandy, nơi sẽ chôn cất mẹ bên cạnh cha tôi. Cùng hai đứa con, tôi lái xe riêng. Trời mưa suốt hành trình, gió bên ngoài thổi mạnh. Các con hỏi về dịch vụ tang lễ, đây là kinh nghiệm đầu tiên của chúng nên chưa biết cách ứng phó như thế nào.

Đến Yvetot, gia đình tập trung gần lối vào nghĩa trang. Một trong những họ hàng la lớn từ xa: “Thời tiết lạ quá! Cứ tưởng như tháng mười một,” để che giấu sự bối rối khi thấy chúng tôi đến gần. Chúng tôi cùng nhau đi về phía mộ của cha tôi. Mộ cho mẹ nằm lộ thiên, đất mới đào thành gò màu vàng ở một bên. Quan tài của bà được đưa về phía trước. Khi hạ huyệt, những người cầm dây mời tôi bước tới để chứng kiến cảnh quan tài trợt vào mộ phần. Cách đó vài bước, người phu mộ đang chờ sẵn với cái xuổng trên tay. Nước da anh hồng hào, mặc quần yếm màu xanh, đội mũ nồi và đi ủng. Tôi cảm thấy muốn đi đến và cho anh ta một trăm franc, để anh có thể uống rượu. Không hại gì. Rốt ráo, anh là người cuối cùng chăm sóc cho mẹ tôi, bằng cách lấp đất cho bà suốt buổi chiều, anh có thể tận hưởng một chút rượu.

Gia đình khăng khăng muốn tôi phải ăn một thứ gì trước khi ra về. Sau đám tang, dì tôi đã đặt sẵn chỗ ăn trưa tại một nhà hàng. Quyết định ở lại vì cảm thấy đây là việc có thể làm cho mẹ vui lòng. Dịch vụ tiến hành chậm, chúng tôi nói về việc của mình và những đứa con. Thỉnh thoảng, nhắc đến mẹ tôi. Chúng nói, “Bà ngoại tiếp tục sống như vậy để làm gì?” Chúng nó nghĩ, bà ngoại qua đời là điều tốt hơn. Sự chắc chắn của câu nói này là điều tôi không thể hiểu. Lái xe trở về nhà vào buổi tối. Mọi thứ chắc chắn đã kết thúc. 

Cuối tuần sau đám tang, tôi bắt đầu khóc mà không có lý do gì. Ngay sau khi ngủ dậy, tôi biết mẹ đã chết. Ngồi dậy sau cơn buồn ngủ, không nhớ gì về giấc mơ, ngoại trừ thấy mẹ tôi trong đó, bà đã chết. Làm tất cả những việc cần thiết thường ngày như đi chợ, nấu ăn, giặt đồ bằng máy. Khá thường xuyên, tôi quên thứ tự để làm những thứ này. Sau khi gọt rau trái, phải dừng lại suy nghĩ công việc tiếp theo, tức là rửa sạch chúng. Còn đọc sách là việc đơn giản không thể làm. Một hôm, đi xuống hầm, thấy chiếc va li của mẹ. Mở ra trong đó có cái ví, chiếc túi xách mùa hè, và một số khăn choàng cổ. Tôi đứng tê liệt trước chiếc va li mở ra.Giây phút tồi tệ nhất là khi lái xe rời nhà vào phố. Đang ngồi sau tay lái, đột nhiên ý nghĩ đập vào mặt tôi: “Mẹ không còn sống ở bất kỳ một nơi nào trên thế giới này nữa.” Không thể chấp nhận thực tế mà người khác có thể xử lý một cách bình thường. Những xem xét tỉ mỉ khi họ chọn lựa thịt ở những hàng bán thịt, khiến tôi kinh hãi.

Tình trạng này dần dần thuyên giảm. Dù vậy, tôi vẫn cảm thấy an ủi vì tiết trời se lạnh, ẩm ướt như những ngày mẹ còn sống. Cảm giác chìm đắm xảy đến mỗi khi tôi nhận ra, “bây giờ tôi không cần phải làm … hoặc  không phải làm việc này việc nọ cho mẹ nữa.” Cảm thấy trống vắng, khi nghĩ, đây là mùa xuân đầu tiên mà bà không được nhìn thấy. (Lúc này, tôi có thể cảm nhận sức mạnh của câu nghĩ thông thường sáo rỗng.)

Ngày mai, đúng ba tuần sau ngày đám tang. Chỉ mới hôm qua, tôi mới vượt qua nỗi sợ hãi khi phải viết: “Mẹ tôi đã qua đời,” không phải trên trang giấy rời, mà ở phần mở đầu cuốn sách. Thậm chí không thể nhìn những tấm ảnh của mẹ. Một tấm thấy bà đang ngồi trên bờ sông Seine, hai chân xếp gọn gàng bên dưới. Tấm ảnh trắng đen, nhưng tôi có thể thấy mái tóc đỏ rực và nắng trời phản chiếu trên bộ y phục màu đen vải alpca.

Tôi sẽ tiếp tục viết về mẹ là người phụ nữ duy nhất thực sự có ý nghĩa với tôi. Bà bị bệnh mất trí nhớ trong hai năm. Có lẽ, nên chờ đợi cho đến khi bệnh tật và cái chết của bà tan vào quá khứ như những sự kiện khác trong đời: Cái chết của cha và chuyện chia tay với chồng, để khoảng cách xa sẽ giúp tôi phân tích ký ức dễ dàng hơn. Giờ đây, tôi chẳng có năng lực để làm gì cả.

Đây là một việc khó khăn. Đối với tôi, bà không có lịch sử. Luôn luôn hiện diện ở đó. Khi nói về bà, sự thôi thúc đầu tiên của tôi là “đóng băng” người mẹ trong một loạt các hình ảnh không liên quan đến thời gian. “Bà có tính khí nóng nảy,” “Rất sôi nổi trong mọi công việc,” và nhớ lại những chuyện ngẫu nhiên mà bà đã làm. Điều này chỉ mang lại một người phụ nữ trong tưởng tượng mà gần đây đã xuất hiện trong giấc mơ của tôi, sống lại một lần nữa, trôi nổi không già hơn, qua một thế giới căng thẳng, làm nhớ lại những bộ phim kinh dị tâm lý. Tôi cũng muốn nắm bắt một người phụ nữ thực sự, đã hiện hữu không phụ thuộc vào tôi. Bà sinh ra tại ngoại ô thành phố nhỏ Normandy, và chết tại nhà dưỡng lão của bệnh viện ở bên ngoài thành phố Paris. Khía cạnh khách quan hơn của tôi trong bài viết sẽ liên quan đến sự giao thoa giữa lịch sử gia đình và xã hội học trong thực tế và hư cấu. Cuốn sách này có thể xem là một phiêu lưu trong văn học vì mục đích của nó là tìm ra sự thật về mẹ tôi, một sự thật chỉ có thể truyền đạt bằng chữ nghĩa. (Không phải hình ảnh, không phải ký ức, ngay cả những hồi tưởng của gia đình không thể mang lại cho tôi sự thật này.) Tuy vậy, trong một ý nghĩa nào đó, tôi vẫn muốn ở dưới vị trí văn học.

Yvetot là một thành phố giá lạnh, nằm trên cao nguyên lộng gió giữa Rouen và Le Havre. Vào lúc giao thời của thế kỷ, nó là một trung tâm hành chánh quan trọng, là thủ phủ thương mại của khu vực hoàn toàn phụ thuộc vào nghề nông, kiểm soát bởi một nhóm chủ đất giàu có. Ông ngoại tôi làm nghề dệt vải ở một trong những trang trại địa phương. Bà ngoại tôi kiếm sống bằng nghề dệt vải tại gia, họ dọn đến Yvetot vài năm sau khi kết hôn. Cả hai đến từ một ngôi làng cách xa độ ba cây số. Họ thuê một ngôi nhà nhỏ có sân trong vùng ngoại ô thành phố, nằm phía bên kia đường rầy, khoảng giữa những quán cà phê cuối cùng gần nhà ga và những cánh đồng đầu tiên của Colza. Năm 1906, mẹ tôi sinh ra ở đó, đứa con thứ thư trong gia đình sáu anh chị em. Bà tự hào nói với mọi người: “Tôi không sinh ra ở vùng thôn quê.”

Bốn đứa con chưa bao giờ rời khỏi thành phố. Mẹ tôi ở Yvetot ba phần tư cuộc đời. Họ dọn vào gần trung tâm thành phố nhưng không thực sự sống ở đó. Họ vào phố tham dự thánh lễ, mua thịt, gửi hàng bưu điện. Một trong những chị em họ có căn nhà nơi trung tâm thành phố, cắt ngang bởi đường N15, con đường chính có xe tải chạy suốt ngày đêm. Cô đã cho con mèo uống thuốc ngủ để khỏi chạy ra ngoài bị xe cán. Khu vực mà mẹ tôi trải qua thời thơ ấu, sau này, được nhiều người có lợi tức cao tìm đến, vì không khí yên tĩnh và các tòa lầu cổ kính.

Bà tôi đặt ra luật lệ để bảo đảm con cái được dạy dỗ đúng đắn, quát mắng và đánh đòn chúng khi cần thiết. Bà là một nhân viên năng nổ nhưng khó hòa đồng. Đọc từng xê ri bài là cách giải trí duy nhất của bà. Có năng khiếu viết và đứng đầu khi thi đậu chứng chỉ sơ cấp. Bà có khả năng trở thành nữ hiệu trưởng nhưng cha mẹ không cho phép rời khỏi làng. Một người chia cách với gia đình luôn được xem là dấu hiệu của sự bất hạnh. (Trong tiếng Pháp Norman, “tham vọng” là nói đến tổn thương khi chia ly; chẳng hạn, một con chó có thể chết vì tham vọng.) Để hiểu câu chuyện, kết thúc khi bà mười một tuổi, người ta phải nhớ tất cả những câu này bắt đầu với “ngày xưa”: Ngày xưa, người ta không đi học như bây giờ; ngày xưa, người ta nghe lời cha mẹ, …v…v…

Nói một cách khác, bà là người nội trợ giỏi, xoay xở để nuôi sống gia đình trong khi thực sự không có tiền. Khi những đứa trẻ sắp hàng vào nhà thờ, chúng ăn mặc tử tế (không có chỗ rách hoặc dơ bẩn), tiến tới tình trạng sống đàng hoàng, khiến gia đình không cảm thấy như những kẻ bần cùng. 

Bà đổi ngược cổ áo và cổ tay sơ mi của các cậu trai để có thể mặc lâu hơn gấp hai lần. Bà tiết kiệm mọi thứ, bánh mì cũ, lớp màng sữa để làm bánh, tro để giặt đồ, hơi nóng của bếp để phơi khô mận, khăn lau bát đĩa, và nước dùng rửa buổi sáng để chúng tôi có thể rửa tay trong ngày. Bà biết hầu hết mẹo vặt dùng trong gia đình để giảm bớt nghèo khó. Loại hiểu biết này truyền từ mẹ sang con gái trong nhiều thế kỷ, dừng lại ở thế hệ tôi. Chỉ là một người lưu trữ. 

Ông ngoại tôi, một người đàn ông mạnh mẽ, hiền lành, qua đời vì đau tim năm năm mươi tuổi. Mẹ tôi lúc đó mới mười ba tuổi, rất ngưỡng mộ ông. Sau khi ông mất, thái độ của bà tôi trở nên cứng rắn và nghi ngờ mọi người. (Bị ám ảnh bởi kinh qua những khủng hoảng: đứa con trai đi tù, và đứa con gái đẻ hoang.) Khi nghề dệt thủ công tại gia không còn nữa, bà nhận công việc giặt đồ cho người khác và dọn dẹp văn phòng.

Vào cuối đời, bà dọn về ở chung với vợ chồng con gái út. Họ sống cạnh đường sắt, trong nhà tiền chế không có điện, từng dùng làm kho chứa cho nhà máy bên cạnh. Ngày Chủ Nhật, mẹ tôi dẫn tôi đi xem con diệc. Mẹ là một phụ nữ nhỏ nhắn, đầy đặn, rất nhanh nhẹn mặc dù khi sinh ra có tật, một chân dài một chân ngắn. Ít nói, tính tình thô lỗ và thích đọc tiểu thuyết. Thích uống eau-de-vie, thứ mà bà ấy trộn với cặn cà phê lấy dưới đáy cốc. Bà qua đời năm 1952.

Những điểm chính trong thời thơ ấu của mẹ:

- Vô cùng thèm ăn. Trên đường trở về nhà từ tiệm bánh, bà ăn cả trái cân. Bà nói: “Khi tôi hai mươi lăm tuổi, có thể nuốt chửng cả biển với tất cả tôm cá trong đó.”

- Sáu đứa con ở cùng một phòng, bà ngủ chung với người chị, một kẻ mộng du, khi tìm thấy cô ta đang đứng trong sân, ngủ say, mắt mở thao láo….

- Những áo đầm và những đôi giày được chuyền từ chị xuống em, một con búp bê bằng vải vụn cho lễ Giáng Sinh, rượu táo ngọt làm sâu răng.

Mặt khác:

- Đi trên xe ngựa cũ, trợt trên mặt hồ đóng băng vào năm 1916, bỏ qua các trò chơi và chơi trò cút bắt, tung những lời lăng mạ vào các cô gái trẻ đi học trường tu viện địa phương (Những lời chọc phá kèm theo dấu hiệu xem thường: quay lại chổng đít vỗ vào mông.)

- Dẫn đầu cách sống ngoài trời, cô gái nhỏ nông thôn hiểu biết đầy đủ giống như các cậu trai: cưa gỗ, rung cây táo cho rụng trái, giết gà mái bằng cách cắm cái kéo xuống cổ họng. Tuy vậy, có điểm khác biệt: cô bảo đảm không ai dám chạm vào “chỗ đó” của mình.

Mẹ tôi theo học trường tiểu học ở địa phương, vắng mặt khi cần ra ngoài đồng hoặc khi anh, chị hoặc em của bà đau ốm. Bà không nhớ nhiều về giai đoạn này. Có điều các nữ hiệu trưởng mong muốn các cô gái lịch sự và sạch sẽ: họ kiểm soát cổ áo và móng tay, yêu cầu tháo một chiếc giày (để không biết trước phải rửa chân nào). Mẹ đi học không hề trải qua một chút kinh nghiệm nhiệt tình nào. Thời đó, không ai thúc đẩy con cái, động lực này phải có sẵn bên trong. Trường học chỉ là một giai đoạn mà người ta phải trải qua trước khi ra kiếm sống. Trốn học, không phải là ngày tận thế. Nhưng không được trốn thánh lễ. Ngay cả đứng phía sau nhà thờ, cũng có thể chia sẻ vẻ đẹp, sự sang trọng, và tinh thần tế lễ: chén thánh bằng vàng, những chiếc khăn thêu, những bài thánh ca, và có ấn tượng không sống trong tình trạng hoàn toàn nghèo khó.

Thời gian đầu, mẹ rất thích tôn giáo. Giáo lý là môn học mà bà say mê và thuộc lòng hết những câu trả lời. (Trong nhà thờ, bà phản ứng bằng giọng điệu cuồng nhiệt, trầm bổng, như thể chứng tỏ bà đã biết.)

Bà không vui cũng không buồn khi phải rời trường học lúc mười hai tuổi rưỡi. Thói quen này rất phổ biến thời đó.  Tìm được việc làm trong nhà máy sản xuất bơ thực vật. Bà chịu đựng lạnh lẽo và ẩm ướt, đôi tay thấm nước làm da thịt nứt nẻ suốt mùa đông. Vì vậy, bà không thể chịu đựng khi thấy bơ thực vật. Đối với bà, không phải “tuổi thanh xuân đầy mơ mộng”, mà là sự chờ đợi dài đăng đẳng cho đến tối thứ Bảy. Sau khi mang tiền về cho bà ngoại, còn lại số tiền tiết kiệm chỉ đủ mua một ít son phấn trang điểm, loại phấn son giả theo L’Echo de la Mode, và một vài tiếng cười khúc khích miễn cưỡng. Một hôm, người quản đốc để chiếc khăn quàng cổ của anh mắc vào một trong chiếc máy đang chạy. Không ai đến giải cứu, anh ta phải tự tháo để thoát thân. Mẹ tôi đang đứng bên cạnh.  Làm sao người ta có thể hiểu được thái độ của bà nếu họ không trải qua cùng mức độ bị cô lập.

Trong bối cảnh kỹ nghệ hóa của thế kỷ hai mươi, một nhà máy sản xuất dây thừng đã được thành lập trong vùng, thu hút tất cả những người trẻ ở địa phương. Mẹ tôi cũng được nhận vào cùng với các chị gái và hai anh trai. Để đời sống được thoải mái hơn, bà ngoại dời vào ngôi nhà, cách nhà máy vài trăm mét, nơi bà và các con gái dọn dẹp sau giờ làm việc. Mẹ tôi thích làm việc ở xưởng sạch sẽ, khô ráo, được phép trò chuyện và đùa giỡn. Bà tự hào về công việc này. Làm trong nhà máy lớn khiến bà cảm thấy văn minh so với những người còn nhà quê, những thôn nữ quanh quẩn với trâu bò, và tự do so với người đầu tắt mặt tối, những người giúp việc cho gia đình người khác, tóm lại là “liếm đít người giàu.” Và bà tự nhận ra mình đã đi được bao xa so với nguyện vọng duy nhất: trở thành cô gái bán hàng.

Giống như những gia đình đông đảo khác, gia đình mẹ tôi là một bộ tộc: bà ngoại và con cái có cách cư xử giống nhau ở những nơi công cộng và lối sống trong hoàn cảnh làm việc nửa tỉnh nửa quê. Có nghĩa là, người ta có thể nhận ra ngay họ là ai. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cả nam lẫn nữ, họ luôn luôn nói lớn tiếng. Mặc dù bản tính vui vẻ, cởi mở, họ rất dễ bị xúc động và nhạy cảm đưa đến sự tấn công, nói thẳng với mọi người ý nghĩ của họ. Trên hết, họ tự hào về những nỗ lực mà họ đã dành cho việc làm. Họ cảm thấy khó tin, bất kỳ ai khác có thể chứng tỏ sự tận tâm hơn. Vượt qua giới hạn giai cấp của họ bằng cách tự cho mình là “nhân vật nào đó”. Điều này có thể giải thích cho sự điên cuồng của họ trong mọi phương diện, công việc, thức ăn, cười cuồng nhiệt, rồi chỉ một giờ sau tuyên bố “Tôi sẽ nhảy vào bể nước để tự vận.”

Mẹ tôi là người tính khí kiêu ngạo, nóng nảy. Bà nhận biết mình thuộc tầng lớp thấp hơn và vì đó mà căm phẫn, từ chối bị đánh giá chỉ dựa trên địa vị xã hội. Bà thường nói về những người giàu có, “Họ không hơn gì chúng ta.” Bà là một cô gái tóc vàng, mắt xám, rất hấp dẫn, đầy đặn, dễ ưa và tràn đầy sinh lực. Thích đọc bất kỳ thứ gì có thể tìm thấy. Thích hát những ca khúc nổi tiếng nhất. Thích trang điểm đi chơi với bạn đến rạp hát hoặc rạp chiếu phim, để xem Roger la Honte và Le Maitre de Forges. Luôn luôn sẵn sàng vui chơi thêm một chút.

Nhưng thời đó, trong thành phố nhỏ, mọi người quan tâm tìm hiểu hàng xóm càng nhiều càng tốt. Chắc chắn, một người sẽ bị dằn co giữa việc muốn “tận hưởng tuổi trẻ” và lo sợ cho tiếng tăm của mình. Mẹ tôi cố gắng sống theo hình ảnh tốt nhất mà mọi người có thể cư xử đối với giai cấp của bà: “Những thiếu nữ hãng xưởng, nhưng dù sao cũng đáng nể trọng.” Đi lễ, rước lễ, thêu quần dài tại trại trẻ em mồ côi ở địa phương do các nữ tu đảm trách, không bao giờ đi vào rừng một mình với con trai. Làm sao bà hiểu được những chiếc váy ngắn (bà tự lên lai), đường cắt ngang trước ngực, biểu cảm “táo bạo” trong đôi mắt, và đặc biệt là cách cư xử đối với đàn ông, bà sẽ không bao giờ được đánh giá là “thiếu nữ đứng đắn”, chính là điều bà ao ước trở thành.

Tuổi trẻ của bà liên quan đến việc nỗ lực trốn thoát những điều nhàm chán xác định trong số phận: nghèo đói không thể tránh khỏi, mối đe dọa nghiện rượu, và nhiều chuyện khác xảy ra cho một cô gái hãng xưởng đã sa vào những thói quen xấu (hút thuốc nơi công cộng, lang thang trên phố về đêm, mặc quần áo bẩn ra đường.) Loại cô gái mà không “chàng trai đáng nể trọng” nào muốn nhìn hai lần.

Không một ai trong số anh chị của bà còn sống sót. Bốn người đã qua đời trong hai mươi lăm năm qua. Trong thời gian dài, cơn thèm ăn điên cuồng đưọc thay thế bằng rượu, đàn ông rủ nhau đi quán cà phê, đàn bà ở nhà một mình. (Chỉ cô em út, người không uống rượu, vẫn còn sống.) Trừ khi họ uống đủ số lượng rượu, nếu không, họ ủ rũ, lầm lì. Họ miệt mài làm việc trong im lặng, “một nhân viên tốt” hay “một phụ nữ quyến rũ không bao giờ đưa ra bất kỳ lý do gì để phàn nàn”. Nhiều năm qua, họ đã quen bị đánh giá theo mức độ uống, họ “ngà ngà” hoặc họ “say xỉn”.

Một năm, vào ngày thứ Bảy, tôi gặp dì M, trên đường đi học về. Hôm đó là ngày nghỉ của dì, như thường lệ, dì sắp vào phố với cái túi đầy chai không. Dì hôn lên hai bên má tôi, khẽ lắc lư, không thể thốt lên một lời nào. Cuốn sách của tôi không bao giờ thành hình, nếu ngày đó, không gặp dì.

Phụ nữ Fora, hôn nhân là vấn đề sống chết. Hy vọng hoặc “làm sao để hai người ăn ở với nhau lâu bền” hoặc rơi xuống tận đáy. Vì vậy, một người phải có khả năng nhận ra người đàn ông nào làm cho người đàn bà được hạnh phúc. Đương nhiên, không phải là anh nông dân, dù là người có tiền, để cuối cùng vắt sữa bò trong ngôi làng tối tăm không có điện. Cha tôi làm việc tại nhà máy sản xuất dây thừng. Ông cao ráo, tề chỉnh, sống theo một phong thái riêng. Không uống rượu, để dành tiền chăm lo nhà cửa. Trầm lặng, vui vẻ, lớn hơn mẹ bảy tuổi (một chàng trai không thể bỏ qua!). Mỉm cười và thẹn đỏ mặt, mẹ kể với tôi: “Vào thời đó, nhiều người tán tỉnh mẹ. Một số người cầu hôn, nhưng mẹ chọn cha.” Bà thường nói thêm: “Ông ấy trông khác thường.”
 
(Trích dịch từ A Woman’s Story. Annie Ernaux. Bản Anh ngữ: Tanya Leslie.)

***
 
Annie Ernaux (1940 - Hiện tại)

Annie Ernaux sinh năm 1940 tại Lillebonne Normandy. Vài năm sau, cha mẹ cô dọn đến Yvetot, nơi họ mở một quán cà phê và cửa hàng tạp hóa trong một khu lao động của thị trấn. Năm 1958, ở tuổi mười tám, cô rời nhà vào mùa hè để đi làm chăm sóc trẻ em trong một trại hè (colonie de vacances). Mùa hè năm đó, lần đầu tiên sống với một nhóm người cùng tuổi, cô trải qua kinh nghiệm tình dục lần đầu tiên, được kể lại trong tác phẩm gần đây Mémoire de fille (Câu chuyện của một cô gái). Trong cùng cuốn sách này, cô cũng viết về thời gian ở London cùng chồng năm 1960, và nỗ lực đầu tiên của cô trong ngành giáo dục, đào tạo giáo viên tiểu học ở Rouen. Ở cuối cuốn sách, chúng ta thấy Annie trở về Rouen từ London để lấy bằng văn chương, sau khi bỏ khóa đào tạo giáo viên tiểu học của mình. Cô cũng đã viết những trang đầu tiên của cuốn tiểu thuyết chưa xuất bản đầu tiên của mình ở London.
 
Những năm sau đó, cô kết hôn và sinh hai con trai, đỗ hai cuộc thi Capès và agrégation để trở thành giáo viên trung học, và dạy tiếng Pháp tại một trường trung học ở Annecy, Haute Savoie. Một trong những lần trở lại Normandy hiếm hoi của cô trùng hợp với trận ốm và cái chết của cha cô vào năm 1967. Năm 1974, Annie Ernaux xuất bản cuốn sách đầu tiên của cô, Cleaned Out, một tường thuật hư cấu về vụ phá thai bất hợp pháp cô đã trải qua vào năm 1964, và việc cô chuyển từ tầng lớp lao động sang văn hóa trung lưu thông qua giáo dục. Năm 1977, gia đình chuyển đến Cergy-Pontoise, một thị trấn mới ở vùng Paris. Ernaux cuối cùng đã rời bỏ công việc giảng dạy ở trường trung học và nhận một vị trí giảng dạy cho Cned, Trường Đại Học Giảng Dạy Từ Xa. Cuốn A Man's Place được xuất bản vào năm 1983. Sau khi ly hôn vào đầu những năm 1980, Ernaux vẫn ở trong ngôi nhà của cô ở Cergy, nơi cô sống cho đến ngày nay.

Năm 2000, Ernaux nghỉ dạy và dành hết tâm sức cho công việc viết lách, và năm 2008 xuất bản cuốn The Years, được coi là thành tựu xuất sắc của cô cả về nội dung lẫn hình thức sáng tạo, đan xen giữa lịch sử cá nhân và xã hội trong hơn sáu thập kỷ. Thành công của tác phẩm này đã được ghi nhận bằng giải thưởng Marguerite Duras và giải François Mauriac, và bản dịch tiếng Anh lọt vào danh sách rút gọn cho giải Man Booker Quốc tế.
 
Các tác phẩm của Ernaux đã nhận được nhiều giải thưởng tiếng Pháp và giải Marguerite Yourcenar, cũng như các tác phẩm của cô gần như toàn tập đã được xuất bản hoàn chỉnh trên ấn bản Quarto của Gallimard vào năm 2011 (Ernaux là nhà văn nữ đầu tiên được xuất bản trong bộ sách này khi hà văn vẫn còn sống trên đời). Năm 2014, cô được Đại học Cergy-Pontoise trao bằng tiến sĩ danh dự. Vào tuần qua Ernaux đoạt giải Nobel Văn Chương 2022.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.