Hôm nay,  

Chuyện lẩm cẩm

29/10/202212:30:00(Xem: 4262)
Phiếm

Người-già-cô-đơn-a2


Tôi có một người bạn già cứ tự trách mình lẩm cẩm vì hai câu chuyện đã xảy ra cho anh: mất đôi giầy khi đi “gym” tập thể dục, và tìm không ra món quà tặng vợ đêm Giáng Sinh vì
giấu kỹ quá. Tôi viết đùa để trêu anh bạn khi nghe kể lại hai câu chuyện trên.

 

Câu chuyn lm cm thứ nhất: Mất đôi giầy số 6

 

Kể từ ngày về hưu, rảnh rỗi chẳng biết làm gì, tôi hay ngồi viết thư cho bạn  bè hoặc viết tán nhảm với mấy cô hàng xóm. Và trong những lá thư gửi đi ấy, tôi toàn nói chuyện phịa (chuyện giả tưởng). Tôi phịa ra đủ mọi thứ chuyện, từ chuyện to cho đến chuyện nhỏ, từ chuyện trong nhà ra đến chuyện ngoài đường. Tôi phịa nhiều quá đến nỗi tôi cũng bị “hỏa mù” với chính tôi, chẳng biết lúc nào tôi thật lúc nào tôi giả nữa. Nghe chuyện của người tôi cũng bị rơi vào trạng thái hỗn mang, khật khừ hư thật, nửa đúng nửa sai, nửa nạc nửa mỡ, nửa trắng nửa đen, lúc nào cũng chỉ thấy toàn là giả tưởng.

 

Nhân đọc thư anh kể lể về chuyện anh đi tập thể dục ở “gym” gần nhà đã mất đôi giầy số 6 (size 6) do một tên nào đó đi nhầm hay “cầm nhầm”. Tôi bèn tưởng tượng ra nếu cái thằng tôi mất giầy hôm đó. Tôi sẽ làm sao? Tôi sẽ loay hoay, ngơ ngác, tìm tìm kiếm kiếm “đôi giầy số 6”. Đôi giầy mang tên số 6 ấy cứ như mang cái bí danh hay ám số trong truyện trinh thám hay giả tưởng nào đó mà tôi đã đọc từ cái thời còn đi học, cái thời học thì ít mà liếc thì nhiều, liếc sang bàn bên cạnh nhìn mấy em ở lứa tuổi “ô mai” thập thò ăn vụng me chua trong lớp.

 

Này nhé, tôi sẽ lục tủ này, kéo tủ kia, moi moi móc móc, hớt hơ hớt hải, lăng xa lăng xăng chạy ra chạy vào, chạy tới chạy lui đi tìm; rồi nghi ngờ, bực tức cái đứa nào dám “lẩm cẩm” đi nhầm đôi giầy của ông. Ông sẽ tìm cho ra bằng được cái thằng nhãi ranh ở tuổi 13 hay con bé xinh xinh ở cái tuổi 15, 16 trăng tròn đi vừa đôi giầy số 6 ấy. Thế rồi, với đôi chân trần giống như trong phim “Nữ Bá Tước Đi Chân Không”(1) ngày nào, tôi cứ đảo qua đảo lại, mắt trước mắt sau, nhìn ngược nhìn xuôi, nhìn từ trên xuống dưới, nhìn cả những chỗ không thể đi giầy được trên thân thể của những đứa tôi nghi.

 

Thế rồi tôi thất vọng, chán chường, mỏi mệt vì không tìm ra được cái đứa lẩm cẩm ấy. Thế rồi (lại thế rồi), tôi đi ra “front desk”, mượn một chiếc dép mòn (như lời kể trong thư của anh), một chiếc thôi, thất tha thất thểu, chân thấp chân cao, khập khà khập khiễng bước ra xe.

 

Trong lòng tôi có chút gì lo lắng, bồi hồi khi lái xe về nhà. Và tôi cũng cảm thấy có chút gì bẽn lẽn, ngập ngừng khi gặp “nàng đang đứng ngoài ngưỡng cửa chờ chồng, mắt nàng lơ đãng nhìn về cõi xa xăm. Tôi ngoẹo đầu, một tay xòe ra đưa về phía trước khua khua ra dấu như đứa trẻ con vừa mất kẹo, một tay chỉ xuống đôi bàn chân trần, buông thõng một câu “mất rồi” như để phân bua. Nàng lạnh lùng nhìn tôi mà chẳng nói, ngoảnh mặt bước vào nhà lẩm bẩm điều gì tôi không nghe rõ. Tôi rụt rè len lén theo sau, trong lòng lại thoáng có cái gì vui vui, hí hửng. Hí hửng vì ngày mai được mua đôi giầy mới. Với ý nghĩ ấy, tôi xoa hai tay, miệng cười chúm chím, thu mình, khom lưng nhún nhẩy bước vào phòng tắm, khẽ huýt sáo với bản tình ca ướt át.

 

Tôi biết tôi không lẩm cẩm, mà chỉ là nạn nhân của cái tên đi vừa đôi giầy số 6 mà tôi đã mua cách đây hai năm và đã rách. “Đi nhầm” một đôi giầy cũ nát của tôi mà không thèm trả lại, tên này mới đích thực là lẩm cẩm.

 

Tôi xin chấm dứt câu chuyện về thằng tôi chứ không phải là chuyện của ông bạn già cứ tự cho mình là lẩm cẩm.

 

Chắc là tôi lại đang phịa đây rồi! Đùa anh một tý cho vui thôi nhé. [Cười].

 

Câu chuyn lm cm thứ hai: Món quà Giáng Sinh

 

Câu chuyện lẩm cẩm thứ nhất về “đôi giầy số 6” của anh xảy ra chưa được bao lâu, dư hương của cái mùi “không thể thơm được” của đôi giầy cũ vẫn còn phảng phất đâu đây. Ấy thế, một câu chuyện khác được cho là chuyện lẩm cẩm thứ hai của anh lại xảy ra cho anh vào đúng đêm Giáng Sinh.

 

Câu chuyện anh cho là “lẩm cẩm thứ hai” được anh kể như sau: Anh mua một món quà Giáng Sinh tặng vợ. Để tạo bất ngờ, anh đã cất món quà đó quá kỹ, kỹ đến độ tới giờ quan trọng thì tìm nó không ra. Anh cứ tự trách mình là lẩm cẩm.

 

Tôi xin mở đầu câu chuyện để bàn theo kiểu “Mao Tôn Cương” về cái lẩm cẩm thứ hai như thế này nhé. Lại “phịa”!

 

Nhân một buổi sáng, tôi lái xe về tới gần nhà, ngang qua một trạm xe buýt công cộng của thành phố, tôi thấy một người đàn ông đi đôi giầy vải / tennis shoes hiệu Bata mới toanh, dáng người khỏe mạnh, ắt hẳn ông ta phải là người đi tập thể dục hằng ngày. Người ấy cúi đầu đi vòng quanh bên chiếc ghế dài dành cho khách chờ xe với một vận tốc đều đều, không nhanh mà cũng không chậm. Ông ta có vẻ trầm ngâm, thỉnh thoảng ngừng lại ngắm nghía đôi giầy mới đang đi rồi ngửng đầu, cái đầu tóc bạc muối tiêu rất đẹp, nhìn lên trời cao cười cười và lầu bầu một mình như đang nói chuyện với ai.

 

Tôi thấy lạ, ngừng xe quan sát. Ông ta cứ lặp đi lặp lại cái động tác ấy, nghĩa là vẫn bước đi đều đều quanh chiếc ghế, cúi đầu trầm tư, ngắm nghía đôi giầy mới, ngửng đầu nhìn lên trời cười cười rồi lẩm bẩm một mình.

 

Vừa khi chiếc xe buýt trờ tới. Tôi nghĩ thế nào người đàn ông ấy cũng lên xe khi cửa chiếc xe vừa mở ra. Nhưng không, ông ta chỉ đứng nhìn chiếc xe buýt một cách bâng quơ, lơ đãng. Khi chiếc xe từ từ đóng cửa trở lại và chuyển bánh thì ông mới hấp tấp đuổi theo, phóng mình, bấu víu, đu lên. Tôi lắc đầu mỉm cười:

 

– Lẩm cẩm thật!

 

Về tới nhà, tôi ngồi đọc thư anh, thấy anh tự than thở là mình lẩm cẩm đã không tìm ra món quà tặng vợ vào đêm Giáng Sinh vì cất kỹ quá, rồi quên. Tôi thấy anh có lẩm cẩm gì đâu. Tôi cố gắng hình dung ra một cái gì lẩm cẩm nơi anh thì thú thật tôi không đào đâu ra được cái hình ảnh ấy. Nói theo kiểu thầy bàn “Mao Tôn Cương” thì anh được xếp loại “khôn bỏ mẹ” chứ chẳng phải chơi đâu. Anh mà có lẩm cẩm thì khối cô “thèm” cái lẩm cẩm ấy của anh.

 

Nghĩ tới câu “thèm cái lẩm cẩm”, tôi chợt nhớ một câu chuyện và xin kể cho anh nghe. Chuyện có thật đấy nhé! [Cười].

 

Số là thế này. Một hôm, cô hàng xóm đầu ngõ nhà tôi, tên Mộng, nghĩa là cái cô “to lớn đẫy đà làm sao” như tôi đã nhắc tới vài lần, nhân dịp sinh nhật của cô, cô mời tất cả các ông hàng xóm lẫn các cô hàng xóm tới nhà cô ăn bánh “cake” và hát hỏng “ca ra là OK”. Bữa đó, tôi cũng được mời và đang ngồi đấu láo với mấy ông hàng xóm khác tại phòng khách. Câu chuyện cứ ngon trớn, nổ ran. Chợt đâu, tôi thấy vài cô hàng xóm trong khu cứ đi qua đi lại trước mặt tôi mà bụm miệng cười. Tôi lấy làm lạ. Cô chủ nhà thì cứ như “gà mắc đẻ”, nhí nháy chỉ trỏ ra hiệu cho tôi điều gì mà tôi không hiểu. Vì không hiểu nên tôi lờ.

 

Hình như có điều gì cô chủ nhà muốn nói với tôi ghê lắm nên cô cứ lấp ló ở phòng trong vẫy vẫy tôi vào. Cũng vì không hiểu nên tôi vẫn lờ.

 

Cô không chịu nổi nữa, gọi tôi toáng lên:

 

– Anh! Anh vào đây em nhờ một tý.

 

Tôi lừng khừng đứng lên đi vào như cố tỏ ra cho mọi người biết mình không quan tâm chi đến mấy cô hàng xóm.

 

Cô vội hỏi to thêm:

 

– Anh uống cà phê loại nào?

 

Tôi nghĩ cô này thật lẩm cẩm, có thế mà cũng làm nhắng lên. Nhưng hỡi ôi! Bên cạnh cái giọng to lớn kia là một giọng tuy nhỏ nhưng rất sắc, thoát ra từ những kẽ răng:

 

– Đóng cửa sổ vào! Đóng vào... nhanh lên!

 

– Đóng cửa sổ nào? Tôi ngớ người hỏi.

 

Cô vội đưa mắt ra dấu xuống nơi “cửa sổ” ấy. Tôi giật mình khi nhận ra sự việc, vội đưa tay kéo đóng cái “cửa sổ” lên cái xoạt.

 

Tôi đỏ mặt chống chế:

 

– Anh cứ hay quên mấy cái “lẩm cẩm” này!

 

Cô hàng xóm liếc xéo tôi một cái thật dài, cười cười:

 

– Anh mà lẩm cẩm! Cho em xin cái lẩm cẩm ấy của anh đi.

 

– Cho cái gì? Tôi hóm hỉnh hỏi lại.

 

Cô biết mình lỡ lời.

 

– Never mind (Không có chi)!

 

Cô tất tả bỏ đi để còn tiếp đón những ông hàng xóm kéo tới càng lúc càng đông. Tôi vội bước ra phòng ngoài, để lại phía sau lưng những tiếng cười khúc khích đầy giễu cợt lẫn đú đởn của những cô hàng xóm xinh đẹp khác. Tôi liếc vội xuống dưới đất xem có kẽ hở nào để tôi chui xuống đấy.

 

Tôi hỏi thật anh, trong câu chuyện có thật [lại cười] vừa rồi, tôi có lẩm cẩm không hả? Tôi đâu có lẩm cẩm phải không? Tôi chỉ quên thôi mà. Mà quên thì cũng chỉ là chuyện xẩy ra rất thông thường, thông thường như anh cất món quà Giáng Sinh của chị quá kỹ thành tìm không ra. Có gì lẩm cẩm đâu nhỉ? Cất kỹ thì khác với giấu kỹ đấy nhé. Trăm chuyện vỡ đầu xẻ tai cũng chỉ vì chữ “giấu”. Nhớ cất kỹ chứ đừng giấu cái gì hay điều gì đấy.

 

Có ai trách anh là lẩm cẩm khi anh đang đeo mắt kính trên mắt mà cứ đi tìm kính loạn cả nhà lên đâu. Có ai trách anh khi anh ra mở máy xe rồi cứ chạy vào nhà kiếm chìa khóa xe để ra nổ máy. Có ai trách anh sáng sáng đi làm, ngày nào cũng như ngày nấy, mất cả nửa giờ đồng hồ hớt hơ hớt hải, nào tìm đôi vớ, đôi giầy, nào chùm chìa khóa hay cái ví ở đâu.

 

Giấu đầu hở đuôi” mới thật là lẩm cẩm. Cái lẩm cẩm tệ hại này thì nó chẳng phân biệt tuổi tác hay chủng tộc gì cả. Nó chẳng phân biệt là “nỗi niềm riêng” hay “nỗi niềm chung”, nó cũng chẳng cần biết “một khoảng trời riêng” (tên một thi phẩm ở S.J.) hay “khoảng trời chung”. Cứ giấu mà bị lòi ra là chết, chết một cách rất lẩm cẩm, đau thương. Như giấu vợ để tiêu hết tiền thưởng cuối năm (bonus), rồi lại bất ngờ, trong một ngày đẹp trời nào đó, lẩm cẩm than với vợ là tiền thưởng năm nay ít quá. Trời hôm đó có đẹp cách mấy cũng tối sầm.

 

Nói vậy thôi, không phải cái lẩm cẩm nào cũng đáng sợ cả đâu. Có cái lẩm cẩm cũng rất dễ thương, vì có cái lẩm cẩm nào giống cái lẩm cẩm nào đâu. Như có một lần cô hàng xóm xinh đẹp trước cửa nhà tôi, hỏi tôi một câu thật rất đáng yêu “Em nhớ tối hôm qua, khi đi ngủ em mặc áo phải (áo T shirt), sao sáng nay tỉnh dậy em lại thấy mình mặc áo trái?” Có mà thánh mới biết! Hỏi như thế mới thật là lẩm cẩm.

 

Thôi, tôi “lẩm cẩm” vài câu chuyện với anh một tý, lẩm cẩm như cô hàng xóm hỏi tại sao sáng ra tỉnh dậy lại thấy mình mặc áo trái vậy. [Cười!]

 

Nguyễn Giụ Hùng

 

(1) “La Comtesse aux pieds nus” phim do cô đào Ava Gardner và nam tài tử Humphrey Bogart đóng năm 1954.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.