Hôm nay,  

Không đầu không đuôi...

11/13/202217:14:00(View: 3790)


nhau


Tôi loay hoay mấy bận mà không viết được, trong lòng vẫn còn nhiều cảm xúc lẫn lộn thật khó nói nên lời. Những cảm xúc cứ cuồn cuộn làm cho tôi không biết nên bắt đầu viết như thế nào, vả lại những điều mắt thấy tai nghe, những câu chuyện không đầu không cuối đầy ắp nên không biết điều nào nên lấy cái nào lược bớt đi.

 

Bước đầu tiên khi về là gặp ngay những bộ mặt lầm lì, những ánh mắt xét nét của nhân viên hải quan. Họ hầu như vô cảm, sau khi xem xét hộ chiếu, thị thực xong. Họ chẳng chịu trả lại cho khách. Họ cứ ngồi quan sát dòng người đang xếp hàng, ánh mắt liếc ngang liếc dọc tìm kiếm và lượng định con mồi. Trước khi đi ai cũng bảo kẹp tiền vào hộ chiếu để họ làm việc cho nhanh. Tôi thì không! Kiên quyết không! Đồng hương gốc mít cũng lạ thiệt, khi ở bên ngoài thì hùng hổ lắm nhưng về đến cửa khẩu là khép nép, khúm núm và ngoan ngoãn chi lạ!

 

Những ngày ở Sài Gòn tôi lang thang nhiều nơi để tìm lại những kỷ niệm xa xưa, thât tình mà nói thì hoàn toàn thất vọng, có lẽ tôi sống bằng nhiều tâm tưởng, bằng mộng mơ nên khi đối diện thực tế thì vỡ mộng! Khi chưa về tôi vẫn mường tượng sài Gòn thế này, sài Gòn thế kia nhưng về rồi thì ngán! Cả một biển người trên đường phố, xe cộ gầm rú đinh tai nhức óc, dòng xe cuồn cuộn ken kín các ngả đường, ở những giao lộ thì thật kinh khủng, phải nói là một sự hỗn loạn không thể tưởng được. Hình như tất cả mọi người tuôn hết ra đường để mưu sinh?  Những quán xá, tiệm buôn hai bên đường, những khu chợ, hẻm… Mọi người tràn ra chen lấn cả vỉa hè thậm chí cả lòng đường. Sài Gòn chỉ sang trọng và đẹp ở vài khu vực quận nhất, quận ba còn lại thì cả thành phố cũng như ngày nào. Chợ Lớn cũng thế, cũ kỹ, ồn ào, dơ dáy… Sài Gòn ngày nay phân hóa rất mạnh, những cao ốc mọc lên nhan nhản, nhất là khu vực bờ sông Sài Gòn, khu vực Thảo Điền, Phú Mỹ Hưng… Và ở những khu này thì đa số là người Hàn quốc, người ngoại quốc. Họ là những doanh nhân, nhân viên của các công ty sang Việt Nam làm ăn và sinh sống. Sài Gòn hoa lệ, Sài Gòn hoàn ngọc viễn đông… chỉ e là ngôn từ trong sách vở mà thôi! Các quan lạc quan tếu, mạnh miệng tuyên bố:” Nơi đáng sống nhất quả đất”, “ chẳng thua gì Singapore, Paris...”, “ Cột điện cũng rủ về đây sống”… Nếu các vị thử đi một vòng kênh Nhiêu Lộc, Thị Nghè thì ắt hẳn tắt tiếng, nước đen ngòm, rác rến lềnh phềnh, hôi thối dễ sợ ấy là đã cải tạo rồi đấy nhé! Những hàng cây xanh tuổi đời trăm năm bị cắt sạch ráo rồi. Trẻ em, người già, người tàn tật xin ăn, bán vé số khắp phố phường. Nạn cướp giật không còn phải nói nữa, bây giờ lớp người xài ma túy, thuốc lắc tràn lan. Những nhóm giang hồ xã hội đen lộng hành như chỗ không người, chúng kéo lê mã tấu tóe lửa trên đường. Sài Gòn mưa là ngập, thậm chí không mưa cũng ngập. Tôi ghé thăm một nhà người thân ở Thanh Đa, Bình Thạnh, khi đến rất bình thường, khi về, bước ra cửa thấy nước đã lênh láng đến tận đầu gối. Hòn ngọc viễn đông như thế này sao? Có một điều không thể phủ nhận là ở Sài Gòn cũng sướng thật, có tiền là ăn chơi mát trời ông địa, muốn gì cũng có, thích gì cũng chìu, rượu thịt, mát xa, gái gú… không thiếu món nào. Giới có tiền, Việt kiều, đại gia cứ ăn chơi phè phỡn như thể những ông trời con.

 

Sài Gòn ngày xưa, Sài Gòn trong tâm tưởng của tôi là những con đường rợp mát hàng me, hàng xà cừ, những cây dầu thả trái xoay tít trên không trung. Sài Gòn ngày xưa đẹp, thanh lịch dễ thương. Sài Gòn nay nhiều cao ốc hơn, giàu có hơn, hiện đại hơn nhưng quá xô bồ, hỗn tạp và rất nghiệt ngã. Sài Gòn nay rác rến quá nhiều, rác khắp mọi nơi, bụi đất kinh khủng, bụi bám trên bề mặt của nhà cửa, xe cộ, trên mọi vật và dĩ nhiên trên cả áo quần và trên mặt người.

 

Có một điều tôi nhận thấy là quê hương mình giờ nhiều rác quá, chỗ nào cũng rác, thành phố, thị trấn, thôn quê, đồng ruộng, sông biển, núi rừng… đâu đâu cũng rác thải, nhiều nhất là túi nylon, hộp xốp… Người quê mình giờ xài túi nylon kinh khủng quá, món ăn thức uống, vật dụng… bất cứ thứ gì cũng đựng trong túi nylon, rác thải bừa bãi khắp mọi nơi. Người ta có thể ngồi ăn thoải mái vui vẻ ngay cạnh miệng cống, bàn ghế bé tí tẹo và trên mặt đất rác, giấy, thức ăn thừa, nước bẩn… vung vãi lung tung. Hình như mọi người đã quen sống chung với rác nên chẳng ai thấy dơ.

 

Người quê mình giờ ăn nhậu kinh khủng quá, có thể nhậu bất cứ lúc nào, mà đã nhậu là nhậu tới bến mới chịu. Sài Gòn cũng như cả nước quán nhậu khắp mọi ngả đường, có thể nói là sáng cà phê chiều nhậu. Ngày nay nam nữ bình đẳng, chị em cũng nhậu không kém gì nam nhi. Ở quê mình mà không nhậu thì không làm ăn gì được, mọi giao dịch, mọi công đoạn của công việc đều bắt đầu ở bàn nhậu. Hạng sang thì nhà hàng tửu điếm cao cấp. Hạng xoàng hơn thì có những quán bậc trung, còn hạ lưu hơn nữa thì quán bình dân. Quán nhậu và những tiệm Karaoke luôn làm hài lòng khách bằng mọi chiêu mà họ có thể nghĩ ra.

 

Trước khi về tôi có nhiều dự định sẽ làm việc này, thăm người nọ… nhưng khi về đến nơi thì chẳng làm được việc gì cả, ngay cả việc đến bái kiến thầy, một bậc long tượng thiền môn thời hiện đại cũng không làm được. Có quá nhiều trở ngại và khó khăn đối với tôi. Duy có mỗi một việc không có trong dự tính lại xảy ra. Tôi đã gặp nhóm nhà văn, nhà thơ, họa sĩ của tạp chí Quán Văn: Họa sĩ Lê Triều Điển, họa sĩ kiêm thi sĩ Lê Triều Hồng Lĩnh, nhà văn Đặng Châu Long, nhà văn Trương Văn Dân và vợ là nữ văn sĩ Elena… Chúng tôi gặp nhau ở cà phê “Tắt Đèn” tại chung cư Ngô Tất Tố. Các nghệ sĩ này vẫn gặp nhau hằng tuần ở quán cà phê cóc của chung cư và gọi vui là vậy. Tạp chí Quán Văn hình thành và duy trì mười mấy năm nay là nhờ công sức và tâm huyết của anh Nguyên Minh, anh đã tuổi cao sức yếu nhưng vì đam mê văn thơ mà một mình đứng ra cáng đáng công việc. Anh đã dành hết công sức và tâm huyết để Quán Văn được sống. Quán Văn có thể xem như báo ngoài luồng, không phải dòng chính thống. Người phụ trách phải xin giấy phép và phải rất linh hoạt, uyển chuyển để nó được sống. Quán Văn là sân chơi của những cây bút còn sót lại từ trước bảy lăm và những cây bút sau này nhưng có quan điểm tương đồng với nhau.

 

Người quê mình giờ giàu có và khá giả hơn xưa rất nhiều, rất nhiều người giàu lên và rất nhiều đại gia. Người quê mình hễ giàu có một tí là cố khuếch trương lên cho cả làng biết, thậm chí không giàu cũng làm ra vẻ giàu. Người giàu dù chỉ là cấp phường, xã cho đến hàng đại gia cấp tỉnh thành hay cấp quốc gia… đều có chung đặc điểm là “chảnh” và rất khinh người, cách đối xử của người giàu ở quê mình đối với người nghèo rất hách dịch. Quê mình giờ đồng tiền là tối thượng, nó sai xử hết mọi mối quan hệ trong xã hội và mọi người đổ xô đi kiếm tiền. Mục đích một bộ phận người mình giờ chỉ có tiền, tiền và tiền. Một phần lớn người mình chỉ sống gói gọn trong công thức: Làm tiền (bằng mọi giá), làm tình và ăn nhậu, ngoài ba việc ấy ra thì chẳng quan tâm bất cứ thứ gì khác!

 

Người mình giờ tràn ra đường để kiếm tiền, cảnh sát công lộ cũng tranh nhau chi tiền để được đứng đường, đứng đường mới có tiền, còn như ngồi bàn giấy thì treo mỏ. Người mình giờ mê tín một cách không tưởng tượng nổi, chức quyền càng cao càng mê tín bạo hơn. Họ có thể cúng bái từ gốc cây, cục đá, con vật… cho chí những hiện tượng tự nhiên rất bình thường. Họ đốt vàng mã nhiều không sao kể xiết, vàng mã không còn là những món: Tiền, vàng,bạc, áo quần như ngày xưa, giờ những lò sản xuất cập nhật nhanh chóng làm ra tất cả nhựng món đồ theo trào lưu hiện đại như: iPhone, iPad, Apple Watch, máy tính… Cứ đến ngày mùng hai và ngày mười sáu âm lịch của mỗi tháng là cả Sài Gòn nhà nào cũng bày mâm cúng trước nhà, trước xe, trước sạp hàng, trước cửa tiệm... Họ cúng ai, cúng gì hổng biết nhưng khói nhang nghi ngút, tro đốt vàng mã bay khắp phố phường. Dân mê tín một, quan gia và đại gia mê tín gấp ngàn lần, bọn họ đi chùa, miễu, đình, am… khắp nơi, sẵn sàng bỏ ra bạc tỉ để hối lộ thánh thần, rất hăng say góp của xây mới hay làm mới lại những cơ sở thờ tự dù là chánh phái hay tà môn ngoại đạo. Quan gia giờ người nào cũng xây nhà thờ họ, lập gia phả… thậm chí đúc tượng để lại cho đời sau.

 

Về quê gặp thân nhân, gặp bạn bè thì vui thật, nhưng tôi nhận ra về chơi dăm ba bữa thì được chứ ở lâu dài thì chắc chắn là không được! Tôi biết mình sẽ rất khó khăn để tái hòa nhập lại với môi trường sống như thế này. Tôi biết tánh tôi, tôi biết tôi sẽ bị loại khỏi cuộc chơi sớm thôi! Thật sự tôi không thể chịu nổi cái cung cách của người mình, sao mà nó lề mề, lùi xùi và luộm thuộm quá. Người mình nhậu và hút thuốc kinh khủng quá, hút thuốc mọi lúc, mọi nơi. Khói thuốc 1á ám ảnh tôi vào tận trong giấc ngủ chập chờn.

 

Người mình với chính quyền giống như hai đường song song, quan nói mặc quan, ai nghe cũng biết xạo nhưng cũng phải nghe và phải làm theo. Ai cũng biết xạo nhưng ai cũng cười mà chẳng ai dám nói khác. Dân thích Mỹ, khoái Tây nhưng quan thì ôm Tàu. Quan nói có thì dân nói không, quan bảo không thì dân nói có. Tuy vậy cũng có điểm chung, cả dân lẫn quan đều tìm đường cho con cái mình sang Mỹ sang Tây. Những kẻ giàu có dù là quan hay dân cũng đều cố kiếm cái thẻ xanh hay quốc tịch nước ngoài, mở tài khoản nước ngoài, mua nhà ngoại quốc lót ổ sẵn… Người mình giờ tếu lắm, hễ thấy biệt phủ, dinh thự hay gia sản kếch xù của quan là lập tức bảo rằng: “Giàu là do buôn chổi đót, chạy xe ôm, thả nái, bán trà đá, bán vé số...”

 

– Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 11/22)

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.