Hôm nay,  

Tiếng hát tạ ơn

19/11/202211:36:00(Xem: 3569)
Truyện

nghde
Tranh Nghiêu Đề.

 


Dù xa xôi cách trở đến đâu, điều ước mơ duy nhất là mong gặp lại Chị. Tôi biết, ở một góc trời nào đó, Chị cũng thường nhớ và ao ước như tôi. Đời sống, chợt có những ra đi biền biệt không ngờ, như một tiếng hát vút bay, rồi mất tăm trong gió.

 

Tuổi nhỏ tôi quấn quít, líu lo bên nhà Chị nhiều hơn với Mẹ. Chị giải dùm tôi những bài toán khó, sửa lại những câu văn ngớ ngẩn và còn giúp tôi nhớ tên nhiều nhân vật trong những bài sử dài lê thê…

 

Giọng nói Chị vừa dìu dặt, vừa ấm áp. Đặc biệt Chị hát rất hay, khi hát cổ Chị ngước cao với mắt nhìn chìm đắm. Chị đẹp, nhan sắc óng ánh của một loài chim quí, Chị học Văn Khoa khi tôi còn lẽo đẽo lớp tám. Tôi nhỏ xíu trong lứa tuổi nhõng nhẽo dễ thương, Chị bao dung cười khi tôi lằng nhằng vòi vĩnh.

 

Nhân vật Chị yêu thương. Tài hoa, đẹp, và bạt mạng. Tôi thích Anh, một phong cách giang hồ mỗi lần ngồi với guitar, đàn theo tiếng Chị hát. Khán giả duy nhất là tôi, rưng rưng bên dòng nhạc mơ màng. Những giấc mộng của tôi như đã mơ hồ vói theo cùng tiếng hát mênh mang, vời vợi… Tôi hát theo và nhận ra giọng mình cũng ngân vang, thanh thoát. Không hát về Chú Cuội, Hằng Nga. Tôi mê nhạc Phạm Duy với những lời ngọt ngào, xa vắng. Đôi khi Anh cũng nương tiếng đàn theo giọng hát non nớt, bé bỏng của tôi và Chị thường khen như một lời khuyến khích.

 

Lên tới lớp mười, Ba Mẹ bắt tôi ở nhà học với một cô giáo dạy kèm, thay vì tìm cớ sang nhà Chị, lo đàn hát và tíu tít vui chơi nhiều hơn bài vở. Chúng tôi chỉ còn gặp nhau mỗi ngày cuối tuần và đặc biệt, tôi rất ít được gặp Anh, bởi Anh không tới nhà Chị những ngày chủ nhật.

 

*

 

Khi thấy Anh đứng trước cổng trường, tôi vui mừng chạy tới, cứ như mình chờ đợi đã từ rất lâu.

Anh nói muốn đưa tôi về. Chẳng thắc mắc, tôi vén vạt áo dài ngồi nghiêng trên Vespa và véo von cười nói. Lạ lùng, chúng tôi không hề nhắc tên Chị. Lần thứ hai, rồi thứ ba và những lần sau nữa… Anh chờ tôi trước cổng trường đã thường xuyên mỗi ngày. Tạo cho tôi một thói quen, ngồi học mà chỉ mong cho thời gian mau hết, mong giờ nghe tiếng chuông tan.Tôi bắt đầu điệu đà, xoa lên môi chút son nhạt, đ̣ể khi gặp Anh, mắt tôi cùng môi hồng cười vui, lúng liếng. Những ngày mưa, trong lớp học nhìn ra sân trường, gió thổi tung bay ngàn lá rụng. Tôi cầu mưa ngưng rơi, hay chỉ còn chút mưa nho nhỏ, để tôi sẽ úp mặt mình sát vào lưng Anh, trốn ướt. Rất khó định nghĩa về tình cảm của Anh và tôi là gì? Lập luận như một sự bao che cho cả hai, tôi nghĩ Anh xem tôi như một cô em bé nhỏ.

 

Thiên hạ bắt đầu những xúc cảm bằng mắt, qua dáng vẻ hấp dẫn, đẹp bên ngoài. Có khi rung động bởi thính giác, để xao xuyến, nhớ hoài một giọng nói êm đềm, trìu mến.

 

Với tôi, là những mùi hương.

 

Tôi đã chợt nhớ thiết tha chút mồ hôi trên áo Anh nồng nồng, mằn mặn. Khi chiếc xe lao đi, chợt ngưng lại gấp gáp, mũi tôi chúi vào lưng áo Anh. Là khi tôi bàng hoàng nhận biết điều mê đắm.

Tôi tránh gặp Chị mỗi cuối tuần bởi mặc cảm nói dối. Dù tôi chẳng làm gì sai trái, chỉ thích được ngồi sau lưng Anh, thở với hương thơm từ lưng áo âm ẩm ướt, ngai ngái chút mê man như có ẩn chứa nhiều điều bí mật. Khứu giác, một tín hiệu chân thực, tín hiệu không cần tiếng nói, tín hiệu tuyệt vời, dù lặng câm.

 

Anh nói với tôi đã chẳng còn gặp Chị. Không vớ vẩn hỏi tại sao, nhưng lờ mờ tôi đoán thủ phạm phải chính là mình.Thoáng chút ân hận, biết Chị đang mong chờ Anh trong khổ đau, buồn bã. Tôi nghĩ sẽ tránh mặt, tự hứa không bao giờ gặp lại Anh nữa. Nhưng tôi cứ quấn quít theo gió sau lưng áo Anh, cùng với hương nồng quen thuộc. Tôi đã áp sát tóc trên áo, để đêm về mê muội, hít hà trên tóc chút thơm tho còn vương vất.

 

Hôm Chị sang nhà thăm Ba Mẹ. Tôi ngờ ngợ chút xấu hổ, nhưng vẫn vờ líu lo. Chị hẹn gặp tôi chiều mai, trong buổi họp bạn ngày Chị mãn khóa.

 

Với chiếc áo đầm đẹp, vàng óng ả. Tôi rực rỡ, yêu kiều nhất giữa rất đông bạn bè của Chị. Anh không đến. Tôi vui ngấm ngầm, điều mà sau này tôi ân hận, vì hiểu ra mình là con bé vừa đành hanh, vừa độc ác. Có ai đó đàn theo tiếng hát Chị, tiếng hát vút cao chan hòa với chút nắng bên ngoài. Chới với, tôi nhận ra mình đang nhớ tiếng đàn cũ. Anh không có đây, nhưng tưởng như Anh ngồi đó cùng Chị và tôi, với tiếng đàn óng ánh và ngạt ngào theo tiếng hát. Chỉ mấy tuần thôi, Chị và tôi đã không ngồi với nhau, từ khi Anh đưa đón tôi trước cổng trường. Mới đó, mà sao tôi đã nhìn chị như lạ lẫm, dửng dưng?

 

Chị thông minh, nhạy bén. Không nói ra, nhưng tôi hiểu Chị biết hết vì sao Anh đã chẳng còn đến chơi nhà.

 

*

 

Mùa hè, mùa của líu lo không đèn sách. Nhưng mùa hè đã lê thê dài của tôi năm đó. Là mùa của đợi chờ, bởi nhận ra mình đã chớm biết nhớ nhung. Mùa hè, Anh không còn dịp đón tôi trước cổng trường. Tôi loanh quanh đếm ngày, đếm tháng. Chín mươi ngày, sao mà dài như chín mươi năm.

 

Một chiều mưa rơi rắc, nỗi nhớ Anh thiết tha đã dẫn đưa tôi tới Chị. Tôi muốn nhìn ra, muốn tìm thấy bóng Anh, vẫn chìm khuất đâu đó trong phòng học nhỏ quen thuộc. Cây guitar như buồn rầu, khô héo bên góc tủ sách. Nó nhớ vòng tay Anh, nhớ tiếng hát Chị ngân nga trác tuyệt, và nhớ cả lời hát tôi ngây thơ, vụng dại. Chúng tôi không nhắc gì về những ngày tháng cũ. Những kỷ niệm mới đó, không lâu nhưng sao như đã trôi xa, đã mất tăm theo cùng với mùa hè chờ đợi của tôi. Và… cùng những âu sầu của Chị.

 

Tiếng hát Chị chợt cất cao, vời vợi đắng cay và nghe như tiếng mưa rơi trên những khóm hoa rũ rượi ướt trước hiên nhà.

 

... Chủ nhật nào ta im hơi

Vì đợi chờ không nguôi ngoai

Bước chân người nhớ thương

Đến, khi đã rất muộn

Trước quan tài, mờ khói hương…

(Rezso Seress, Sombre Dimanche; PhạmDuy).

 

Bồi hồi, tôi lăn sà trong lòng Chị như những năm còn học lớp tám. Chị hát mà nước mắt đầm đìa rơi trên tóc tôi. Tay Chị hiền hòa đan trong mái tóc tôi dài, ướt và rối rắm. Tôi cũng khóc, khóc như nhớ thương ai, và khóc với những nghẹn ngào, cùng muôn vàn ăn năn, xa xót. Qua tiếng hát Chị, tôi hiểu ra rằng, không phải chỉ vì mùa hè. Mà chính vì lòng tôi đã chợt thoát theo cùng tiếng hát nhân ái, và cùng với giọt nước mắt Chị bao dung.

 

Rồi tôi sẽ phải chôn giấu hết những nhớ nhung, chìm đắm.

 

Chút mùi hương mà tôi đã mê muội, mơ màng, sẽ phải lặng bay theo mùa hè, phải  biến mất tăm theo cùng với gió. Nằm trong lòng Chị, ấm ức khóc vùi theo tiếng hát. Tôi quyết định sẽ xin Ba Mẹ đổi trường cho mùa học tới.

 

*

 

... Chủ nhật nào ta im hơi

Vì đợi chờ không nguôi ngoai

 

Cuối cùng, Chị lập gia đình. Tôi theo chồng.

 

Chúng tôi, đã chẳng ai “im hơi”. Chẳng ai đã dại dột “tắt thở” chỉ vì chút nhớ mong, trông đợi.

 

*                                                                                

 

Đã bao năm, từ khi rời bỏ quê hương đến sống tại California, chưa bao giờ tôi bỏ sót, không tổ chức cùng gia đình ngày đặc biệt: Thanksgiving. Với tôi đó là dịp để bày tỏ chút ân tình, lòng cảm tạ với những ân sủng, đã được ban phát cho bởi đất trời, và lòng tử tế của muôn phương.

Giữa gia đình trong một party rất trang trọng của lễ Tạ Ơn, bạn bè đã lắng nghe tiếng hát tôi, hát như để nhớ tới, để TRI ÂN một quá khứ.

 

Ở nơi nào xa xăm, Chị có nghe tôi hát đêm nay? Trong một Thanksgiving với ngàn ánh nến lung linh, và đầm ấm. Tiếng hát tôi mong manh gửi theo gió những lời xưa, cùng với niềm ăn năn của thời bé thơ, vụng dại. Khi cất cao tiếng hát, tôi ngậm ngùi nhớ tiếng hát Chị. Tiếng hát dạt dào lòng nhân ái. Nước mắt ngày xưa, giọt nước mắt từ bi, ướt đẫm trên tóc tôi, hòa với lời nhạc buồn tê tái, “Sombre Dimanche”, sẽ chẳng bao giờ tôi có thể quên.

 

Cho dù tất cả đã trôi xuôi, đã mất tăm theo cùng với những mưa, những nắng của đời.

 

...Ta muốn tìm mau

Tới cõi nào, nương náu

Cho ta thành mơ,

Sống yên trong lời thơ

Vắng tanh,

Như đời gió…

(Chopin, Tristesse; PhạmDuy)

 

– LêChiềuGiang

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.