Hôm nay,  

Hành lý trở về

12/14/202209:36:00(View: 5255)

Truyện

father-son

Khi Cu Tí đã ngủ yên trong gối chăn. Tôi mở cửa ra đứng bên lan can nhìn quanh khu phố bình dân, những ngôi nhà bằng gỗ cũ kỹ đang đắm chìm trong mưa tuyết. Tôi tưởng cả dãy apartment này cũng đang ngủ như những căn nhà đối diện kia, vậy mà Phái đã đến bên tôi:

 

– Hiền chưa ngủ à?

 

– Cả anh nữa, anh cũng chưa ngủ à?

 

– Tuyết rơi nhiều quá nên tôi ra ngoài xem sao, thấy Hiền đứng đây.

 

– Vâng, tự nhiên tôi thích nhìn tuyết rơi trong đêm… dù chỉ nhìn vài phút thôi.

 

– Vậy Hiền cho phép tôi đứng với Hiền vài phút này nhé?

 

Tôi không nhận mà cũng chẳng chối từ, bâng khuâng nhìn màn tuyết trắng bay nghiêng, lung linh và mờ ảo trong ánh đèn đường vàng nhạt. Bất ngờ Phái nắm lấy bàn tay tôi, giọng anh run run:

 

– Hiền, tôi chưa bao giờ có cơ hội đứng với Hiền trong một đêm mưa tuyết đẹp như thế này. Tôi muốn nói với Hiền rằng tôi đã… yêu Hiền.

 

Tôi rút vội tay về và vụng về chẳng kém gì anh:

 

– Cám ơn anh Phái, nhưng… nhưng… Hiền… chưa nghĩ đến.

 

– Tôi chỉ cần Hiền hiểu và tôi sẵn sàng chờ đợi Hiền. Thôi, Hiền vào nhà đi kẻo lạnh.

 

– Chúc anh Phái ngủ ngon.

 

Tôi bước vào nhà, cảm tưởng như có ánh mắt anh nhìn theo che chở cho đến khi cánh cửa khép lại, để một mình anh đứng đó bao lâu nữa, tôi không biết. Giấc ngủ vẫn chưa đến, tôi trăn trở nghĩ đến anh. Chẳng cần anh phải nắm tay tôi tỏ tình thì điều này tôi cũng biết từ lâu rồi, hơn một năm nay rồi và vài hàng xóm người Việt Nam trong khu apartment này cũng biết thế, với những gì anh đã cư xử, chăm sóc hai mẹ con tôi.

 

Tôi làm ca sáng, anh làm ca chiều, trưa nào anh cũng đón con tôi về học, cho nó ăn, nó ngủ, chờ tôi đi làm về. Anh thường chơi đùa với thằng Cu Tí và dắt nó đi cùng xuống phố, khi thì đi đổ xăng, khi thì anh hớt tóc, Cu Tí cũng được hớt tóc, khi thì vào Wal- Mart mua những thứ mà Cu Tí thích. Cu Tí yêu mến và quấn quýt anh. Tôi bảo anh đừng chiều nó quá, anh mỉm cười hiền lành và giải thích là anh yêu trẻ con, có Cu Tí nên cuộc sống độc thân của anh đỡ buồn. Anh hiền lành và tử tế thế làm sao mà tôi không cảm động và ấp ủ tình cảm cho anh?

 

Chị Kim, người hàng xóm chơi thân với tôi và anh Phái luôn vun vào:

 

– Chị tìm đâu ra một người đàn ông chân tình như anh Phái? Anh ấy yêu chị và yêu thằng Cu Tí như con. Chị thì mẹ góa con côi, người ta độc thân chưa lập gia đình lần nào.

 

Tôi cũng nghĩ đến chuyện sẽ lấy anh, nếu như cách đây mấy tháng không có một chuyện quan trọng làm tôi đắn đo suy tính. Một bác hàng xóm cũ của cha mẹ tôi hồi còn ở Việt Nam, nay đang sống ở Houston, Texas, đã làm mai tôi cho một người quen của họ. Ông ấy hơn tôi mười mấy tuổi, góa vợ, có sẵn nhà cửa và đang làm chủ một nhà hàng đông khách. Bác hàng xóm cũ đã vẽ cho tôi cảnh phồn hoa đô thị, thành phố lớn sẽ là môi trường tốt cho con tôi ăn học. Bác thuyết phục tôi và đưa mẹ con tôi thăm Houston, Tôi tò mò thành phố lạ và tò mò cả người đàn ông có thể sẽ làm thay đổi cuộc đời tôi. Thế là hai mẹ con tôi đã đến Houston vào mùa Thu vừa qua.

 

Ông Hòa và tôi gặp nhau, ông có vẻ ưng ý tôi ngay khi gặp mặt, ông cần một phụ nữ hiền lành chăm chỉ để cùng ông chung sống và chăm sóc cơ ngơi. Tôi choáng váng khi thấy căn nhà to đẹp và khu nhà hàng sang trọng lúc nào cũng tấp nập khách vào ra của ông.

Vợ ông mất, hai đứa con đã trưởng thành, sống ở nơi khác vì công việc, chỉ một mình ông tất bật với nhà hàng.

 

Sau lần gặp mặt đó ông Hòa và tôi thường trò chuyện qua điện thọai để tìm hiểu nhau thêm trước khi quyết định sống chung. Tôi, một cô gái tỉnh lẻ ở Việt Nam, được cưới sang Mỹ, an phận nơi phố nhỏ chồng tôi sinh sống. Hạnh phúc ngắn ngủi, khi Cu Tí được 3 tuổi thì chồng tôi mất vì một cơn bạo bệnh. Tôi và người chồng xấu số đều không có thân nhân nào ở Mỹ nên tôi vẫn bám lấy phố nhỏ này vì quen bạn bè, quen chỗ làm và chỗ ở. Nếu không có bác hàng xóm thì tôi cũng chả có cơ hội đến Houston để thấy cuộc đời còn bao la trước mặt.

 

Ông Hòa hẹn hết mùa Đông sẽ đến đón mẹ con tôi về Houston.

 

*

 

Sáng thức dậy tuyết đã ngừng rơi từ lúc nào, cả đường phố đâu đâu cũng có tuyết trắng. Mặc thêm áo ấm cho Cu Tí rồi hai mẹ con tôi lao ra phố, đánh thức cái lạnh mùa Đông bằng nhịp sống của mình như mọi người. Ra tới ngoài sân thì chiếc xe của tôi đã được cào tuyết sạch sẽ, bên cạnh những xe hàng xóm còn phủ đầy tuyết. Tôi ngước nhìn lên tầng lầu, căn phòng của anh đóng cửa, nhưng còn ai vào đây khác đã làm công việc này cho tôi ngoài anh? Chẳng biết đêm qua anh đi ngủ lúc nào? Và sáng nay anh dậy sớm lúc nào? Anh như người trong thần thoại, luôn đỡ tay đỡ chân cho tôi những lúc cần thiết như thế này. Suốt mùa Đông năm trước, tôi có lần nào phải cào tuyết trên xe đâu.

 

Bỗng dưng tôi đứng trước ngã ba đường, một con đường về phía anh và một con đường về phía ông Hòa. Vật chất phù hoa cũng làm tôi rạo rực như tình cảm của anh dành cho tôi. Tôi chỉ băn khoăn không biết ông Hòa có yêu thương Cu Tí như anh đã yêu thương nó không? Lần gặp ông Hòa ở Houston, ông không hề quan tâm tới thằng Cu Tí, ông chỉ ngắm nhìn tôi và khoe chuyện làm ăn của ông. Mà thôi, mới gặp gỡ lần đầu tiên thì làm sao ông Hòa có cảm tình với Cu Tí ngay được? Nếu ông yêu tôi, thì ông cũng sẽ yêu con tôi, giống như anh Phái. Tôi nghĩ thế.

 

Mùa Đông dường như đã qua đi. Ông Hòa đúng lời hứa hẹn sẽ đến đón mẹ con tôi vào tuần tới. Tôi làm một quyết định quan trọng là xin nghỉ việc và làm thủ tục trả căn phòng cho chủ. Khi tôi gặp chị Kim để thông báo chuyện này thì chị sửng sốt:

 

– Chị đi thật sao? Chị bỏ anh Phái thật sao?

 

Tôi hơi ngượng ngùng:

 

– Tôi đã hứa hẹn gì với anh ấy đâu?

 

Nhưng anh Phái yêu chị như thế nào chị biết rồi đấy. Tội cho anh ấy quá!

 

Tôi ngậm ngùi:

 

– Tôi cũng buồn lắm chị Kim ạ, nhất là phải chia lìa người mà thằng Cu Tí yêu mến.

 

Điều làm tôi ái ngại nhất là phải đối diện anh để nói lời chia tay. Nhưng chắc chị Kim đã nhanh nhẩu báo cho anh biết rồi nên khi mẹ con tôi sang nhà anh, thấy anh rất trầm tĩnh, dù trên nét mặt không giấu được nỗi buồn:

 

– Chúc mẹ con Hiền đi bình an. Hãy quên những gì tôi đã nói trong đêm mưa tuyết ấy đi.

 

Tôi nói lời xã giao nhạt nhẽo:

 

– Khi nào anh Phái có tin vui, lập gia đình, nhớ báo cho mẹ con Hiền mừng với.

 

Anh ôm Cu Tí vào lòng hôn lên mái tóc nó, không nói nên lời. Hình như đôi mắt anh rưng rưng. Còn thằng Cu Tí, tôi phải kéo tay nó về nhà và giải thích dỗ dành đủ điều nó mới tin rằng chuyến đi xa của chúng tôi sẽ làm nó vui và hứa hẹn một ngày nào đó chúng tôi sẽ về đây thăm bác Phái của nó.

 

Ông Hòa không đến đón mẹ con tôi bằng máy bay cho nhanh chóng như tôi nghĩ mà bằng xe do chính ông lái. Từ thành phố nhỏ của tiểu bang Kansas về Houston mất chừng 6 giờ lái xe, ông giải thích không quá xa để phải đi máy bay, thời buổi này vào ra phi trường tốn nhiều thì giờ và tốn tiền.

 

Tôi hớn hở chất va ly lên xe, hành lý của tôi là giấc mơ đổi đời chứ không phải đơn giản chỉ hai cái va ly này. Ra tiễn tôi tận xe chỉ có chị Kim, chị buồn thiu không biết vì sắp phải chia tay tôi hay vì thương cảm cho anh? Còn Phái, có lẽ giờ này anh đang ngồi trong căn phòng độc thân trống trải với nỗi thất vọng vì một lúc mất đi hai người mà anh thương mến. Chốc nữa anh ra cửa, nhìn sang bên nhà tôi chắc sẽ nhớ thằng Cu Tí? Ngày mai anh đi ra phố hớt tóc hay đi đổ xăng sẽ không có Cu Tí đi cùng và những ngày sắp tới anh sẽ yêu ai?

Tôi giơ tay chào chị Kim và nhìn dãy apartment lần cuối khi chiếc xe từ từ lăn bánh, dãy apartment đã lùi xa và khuất lấp. Xe ra khỏi thành phố, không còn nhìn thấy hình ảnh quen thuộc nữa làm Cu Tí oà khóc kêu lên:

 

– Mẹ ơi, con muốn về nhà mình.

 

Tôi vuốt tóc nó an ủi:

 

– Mình đang về nhà khác đẹp lắm, sẽ có nhiều thứ cho con chơi, nhé!

 

Thằng bé bướng bỉnh:

 

– Không, con muốn về với bác Phái, con muốn chơi với bác Phái cơ.

 

Trời ơi, thì ra  thằng Cu Tí cũng đang quặn đau như tôi, đâu dễ gì chỉ một chuyến đi xa là người ta quên ngay được những hình ảnh đã từng quen thuộc.

 

Ông Hòa đang lái xe, nãy giờ vẫn im lặng, bỗng quay lại cau mày, gắt gỏng:

 

– Em có dỗ con em thôi gào khóc được không? Nó làm anh điếc cả tai!

 

Lần đầu tiên có một người đàn ông, không phải là cha nó, đã gắt gỏng với nó trước mặt tôi. Tim tôi như vừa chạm vào chiếc gai nhọn đau đớn. Ông Hòa lại tiếp tục càu nhàu:

 

– Em phải biết dạy con em, không đươc chiều nó quá.

 

Tôi yếu ớt và mủi lòng lên tiếng bênh vực cho con:

 

– Nó trẻ con rồi sẽ quên ngay ấy mà.

 

Cu Tí linh cảm ngay người đàn ông xa lạ này không chút gì cảm tình với nó, thằng bé nín khóc, tựa vào người tôi và len lén nhìn ông Hòa với vẻ sợ sệt. Tội nghiệp con tôi, quen được anh chiều chuộng nâng niu yêu quý, vậy mà trên chuyến xe chia lìa nó với bao kỷ niệm cũ, đã làm nó tổn thương, lại càng tổn thương hơn vì những ánh mắt lạnh lùng và những lời cáu gắt của người đàn ông mà tôi đã lựa chọn.

 

Tôi nhẫn nhịn không dám mở miệng. Ông Hòa chưa nguôi, quay nhìn Cu Tí với nét mặt khó chịu:

 

– Sau này nó mà bướng bỉnh để anh trị nó đâu ra đấy ngay.

 

Cu Tí sợ quá lại khóc òa làm tôi đau lòng không nhịn nổi nữa, tôi đã đọc thấy trong ánh mắt, trong cử chỉ và lời nói của ông Hòa không chút nào tình thân dành cho Cu Tí. Tôi hét lên:

 

– Không, tôi không muốn đi đâu nữa. Anh quay xe lại cho tôi về phố nhỏ, về dãy apartment nơi căn phòng cũ ngay đi.

 

Ông ta chưng hửng nhìn tôi và lạnh lùng đến tàn nhẫn:

 

– Nãy giờ đi được 1 tiếng rồi, tôi không có thì giờ lái xe quay lại, sắp đến rest area kia, nếu cô muốn thì xuống đấy nhé.

 

Ông ta không hề đe dọa, quẹo xe vào rest area ông bảo mẹ con tôi xuống xe trong khi ông thẳng tay thô lỗ lôi 2 chiếc va ly của tôi để xuống lề đường. Ông nhếch mép cười:

 

– Đây là quyết định của cô, đừng trách tôi.

 

Không thèm đợi tôi phản ứng hay nói năng câu nào ông Hòa lên xe đi luôn mặc hai mẹ con tôi đứng bơ vơ giữa chốn xa lạ này. Tôi kéo lê hai chiếc va ly vào trong kiếm chỗ ngồi, tủi thân nước mắt tuôn rơi như mưa, giá mà ông ta lên tiếng dịu ngọt năn nỉ có thể tôi sẽ mềm lòng nguôi giận và chuyến đi vẫn tiếp tục đến Houston. Chưa bao giờ tôi bị chà đạp và tổn thương như thế này. Nhìn Cu Tí đang lo sợ tôi vội lau nước mắt cố gắng mỉm cười trấn an con:

 

– Chúng ta sẽ trở về nhà.

 

Ngay lúc này trong đầu tôi vẽ ra 2 kế hoạch, gọi phôn cho Phái, nếu anh không đến tôi sẽ gọi cảnh sát 911 nhờ họ giúp đỡ kêu giùm tôi chiếc taxi để mẹ con tôi trở về nơi chốn cũ.

Tôi bấm số phone của Phái, tôi biết hôm nay anh nghỉ ở nhà vì còn lòng dạ nào mà đi làm. Khi anh mở phôn, tôi nói với anh là chúng tôi đang ở rest area cách phố nhỏ 1 tiếng, xe ông Hòa bị hư cần anh đến giúp đỡ. Phái giỏi sửa xe, mỗi khi xe tôi trục trặc lặt vặt gì đều nhờ đến anh. Anh lịch sự và tử tế đáp sẽ đến ngay, anh sẽ lái xe nhanh khoảng 45 phút thôi để chúng tôi không phải đợi lâu.

 

Phái tử tế bao dung quá, ngay cả khi tôi đã làm tổn thương anh, không chọn tình yêu của anh mà chọn người khác chỉ vì vật chất bạc tiền. Tôi ôm Cu Tí chờ đợi, Cu Tí vui mừng vì biết bác Phái sẽ đến đây đón chúng tôi về nhà. Phái sẽ còn yêu tôi nữa không? nhưng tôi biết chắc mẹ con tôi sẽ trở lại đời sống đơn giản nhưng bình yên tâm hồn.

 

Khi chiếc xe quen thuộc của Phái hiện ra đang tìm cách đậu vào lề đường thì Cu Tí vui mừng chạy ào ra chỗ anh, nó reo lên:

 

– Bác Phái ơi, bác ơi!

 

Tôi cố tình đi chậm chậm từ xa, cảm động nhìn Phái ôm Cu Tí vào lòng, cả hai mừng vui cứ làm như đang tái ngộ sau thời gian dài xa cách. Một lúc sau Phái buông Cu Tí ra hỏi tôi và sửng sốt bối rối:

 

– Xe ông ấy đậu chỗ nào để tôi ra xem? Kìa, sao Hiền lại khóc?

 

Tôi không giấu nổi đôi mắt ướt lệ:

 

– Không sao đâu. Anh vào trong bàn này ngồi nghỉ cho đỡ mệt đã.

 

Phái dắt tay Cu Tí đi theo tôi vào trong khu bàn ghế ngồi nghỉ chân, thấy hai chiếc va ly của tôi Phái ngạc nhiên và nhìn quanh không thấy ông Hòa đâu, Phái đã hiểu ra phần nào:

 

– Mẹ con Hiền không đi Houston với ông ấy sao?

 

– Không, anh Phái ạ. Đi một đoạn đường tôi đã hiểu ra mình đã quyết định sai. Cám ơn anh đã đến đây.

 

Cu Tí giục:

 

– Mình về nhà đi bác Phái, cháu chỉ muốn ở gần nhà bác.

 

Ánh mắt Phái hiền hòa nhìn Cu Tí và nhìn tôi rất lâu. Tôi cảm thấy yên tâm, chuyến trở về hành lý của tôi ngoài 2 chiếc valy còn có cả một tình cảm ấm áp vững chắc cho mẹ con tôi nương tựa mà xuýt nữa tôi đã dại khờ chối bỏ.

 

Nguyễn thị Thanh Dương

(November 30, 2022)    

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.