Hôm nay,  

Tản mạn ngày Tết

14/01/202313:10:00(Xem: 3836)

Tản mạn


Da_Lat 


Năm nào cũng vậy, nơi mình ở, cứ đến những ngày cận Tết cho mãi đến sau Tết, thời tiết lạnh giá vẫn chưa chịu ra đi khiến không khí xuân thiếu phần khởi sắc như trong những bài văn, bài thơ, bài hát qua những lời ca tụng mùa xuân nắng ấm chan hòa, hoa màu muôn sắc và người người đang hớn hở đón mừng xuân. Không biết có phải mình đã luống cái tuổi xuân từ lâu nên nhìn sự vật chung quanh có phần ảm đạm hay không? Chắc là vậy.

 

Mấy tuần nay đã thấy không khí Tết diễn ra nhiều nơi trên màn ảnh truyển hình, trên Youtube, trên Facebook, trên radio và trên nhiều phương tiện truyền thông khác nữa. Nhiều nhất vẫn là hình ảnh trước Tết tại Việt Nam từ thành thị cho đến thôn quê do những kênh truyền thông cá nhân ghi nhận. Tại hải ngoại, cảnh trưng bày, mua bán, sắm Tết tại những thành phố có đông người Việt cũng không sao bằng với Việt Nam dù là với một thị trấn nhỏ miền quê.

 

Mình đã “ăn Tết” tại Việt Nam từ thuở tấm bé cho đến lúc phải “cất bước ra đi, mang theo niềm nhớ” (hình như đây là lời của một bài hát… xin mượn). Lúc tị nạn ở nước Cờ Hoa, nếu tính luôn Tết “Quý Mão” này thì mình cũng đã xơi tái được 31 mùa xuân ở hải ngoại. Vậy Tết ở Việt Nam thì sao? Tết ở hải ngoại thì sao? Khó mà nói cho hết! Thôi thì nhân ngày xuân về Tết đến, xin kể câu chuyện mồng một Tết lúc còn ở quê nhà, thời mà đi học phải kè kè bình mực xanh và cây bút lá tre cùng cây thước kẻ.

 

Mình được sinh ra trên mảnh đất Hoàng Triều Cương Thổ của triều nhà Nguyễn (nghe oai chưa!) vào cái thuở “đất rộng người lưa thưa”, sống dưới rừng thông gió hú bốn mùa và với cả cọp beo thường lảng vảng từ Cầu Quẹo lên tới Dankia, Suối Vàng, Suối Bạc… Miệt dưới thì mấy bác “30” cũng thường ghé thăm khu vực thác Cam Ly để nghe tiếng thác reo ì ầm quanh năm khiến mấy em con nít như mình nghe các cụ già như ông bà ngoại, các cụ trẻ như bố mẹ mình kể mà rợn cả tóc mai (không rợn tóc gáy). Về phía nam chút nữa như thác Prenn, Gougah, Pongour thì khỏi phải nói, còn rừng rú hoang vu nguyên thủy. Tóm lại đó là hình ảnh Đà Lạt của thập niên 40 vào thế kỷ hai chục. Qua đến thập niên 50 trở đi thì dân Đà Lạt mới từ từ đẩy mấy chú cọp bác beo vô tuốt trong bưng. Rồi dân số Đà Thành gia tăng sau cuộc di cư của người miền Bắc vô Nam để trốn các đồng chí đồng rận búa liềm. Đà Lạt lại có các khu định cư mới, ở miệt Bắc có các ấp Thánh Mẫu, Kim Thạch, còn ở miệt Nam thì có ấp Nam Thiên, Du Sinh… Xa chút nữa có Tùng Nghĩa, Phi Nôm nằm trên quốc lộ 20 chạy đi về hướng Sài Gòn hoa lệ.

 

Hồi còn bé tí tẹo mình cũng như bao thằng nhóc tì khác, thấy gần đến Tết là vui trong cái bụng lắm (nói theo tiếng của người K’ho là cái bụng), vì: Thứ nhất là được nghỉ học đến cả hai tuần, khỏi phải học bài làm bài gì cả. Thứ hai được dự trại tất niên do trường tổ chức (thời trung học) vui lắm với những màn thi đua văn nghệ, thể thao, bích báo và được ngủ lều dưới cái lạnh “teo gân” của Đà Lạt. Hồi đó các nhóc tì Đà Lạt ưa nói lạnh “teo gân” để chỉ cái lạnh rừng rú hoang dã. Thứ ba là được ông bà bu mua cho bộ quần áo và một đôi sandal mới cáu cạnh để diện ba ngày Tết. Thứ tư là mấy ngày Tết được ăn thức ăn ngon và nhiều. Thứ năm là được lì xì vào sáng mồng một. Còn nhiều cái vui linh tinh khác nữa xin giấu bớt.


Nếu kể “vòng vo” chắc là tốn giấy hao mực (xin lỗi, sợ mệt hai ngón tay) nên chỉ xin kể câu chuyện của ngày mồng một Tết mà thôi. Số là mình có một người bác dâu (vợ của bác ruột) ở đường Phan Đình Phùng, gần ngã ba chùa Linh Sơn rất thương mình vì bác không có con trai – chỉ có sáu mống con gái – thích cái tính lanh lợi vui vẻ của mình nên bác thường nhắc nhở mỗi khi gần Tết “sáng mồng một mi ghé nhà bác để xông đất nghen”. Mình tuân lệnh răm rắp không dám ý kiến ý cò chi cả. Hơn nữa mình cũng thấy có lợi (được tiền lì xì) nên trong suốt thời gian dài, cả chục năm trời ròng rã, cứ sáng mồng một là mình đạp xe đạp mất ba cây số để đến “xông đất” nhà bác.

 

Khi bước chân vô nhà là phải vòng tay cúi đầu chào hai bác, sau đó chào mấy bà chị kèm theo nụ cười trên môi và mặt phải lộ vẻ vui mừng, không được nhăn nhăn nhó nhó và nói năng lắm lúc “vô trật tự” như những ngày thường. Bác khen ngoan rồi móc túi dí vào tay một phong bì màu đỏ chói. Mình cám ơn và nhét ngay vô túi quần. Có vài bà chị cũng tặng bao lì xì. Sau đó bác bảo mấy bà chị dọn thức ăn ra bàn và bảo mình ngồi ăn, có bánh tét, có dưa món, có thịt đông, thịt luộc, chả, xôi, chè chuối…Ôi thôi đủ thứ. Ăn xong thấy một bà chị mở radio hiệu Philips cho nghe tin tức ngày xuân trong đó có lời chúc Tết của tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, tiếp theo là một lô các bài hát xuân như bài Xuân Và Tuổi Trẻ, Cánh Bướm Vờn Xuân…của thập niên 50 (thế kỷ trước), rồi những Đón Xuân, Xuân Đã Về, Hoa Xuân, Ly Rượu Mừng, Cánh Thiệp Đầu Xuân, Anh Cho Em Mùa Xuân… Đặc biệt là những bài hát nói về mùa xuân của lính như bài Đồn Vắng Chiều Xuân, Xuân Đầu Tiên, Phiên Gác Đêm Xuân của thập niên 60. Bài Ly Rượu Mừng của nhạc sĩ Phạm Đình Chương là bài hát được ưa chuộng nhất được nghe mỗi dịp xuân về. Bài này sau tháng tư bảy lăm mấy anh giải phóng cho đi ngồi tù đằng đẵng suốt 43 năm, đến năm 2018 mới ký giấy cho tháo xích xiềng để thả ra để cho trăm triệu dân “từ bắc xuống nam” cùng nghe. Không hiểu mấy ảnh có biết rằng trong 43 năm đó, dân Việt đã nghe Ly Rượu Mừng mỗi lần xuân về khắp hang cùng ngõ cụt hay không? Có khi mấy ảnh cũng hân hoan “ngày xuân nâng chén” không chừng.

 

Khoảng 8 giờ, bác sắm sửa y phục chỉnh tề bước ra và ra lệnh cho mình và hai bà chị cỡ bằng tuổi mình xuất hành đi theo bác. Mấy bà chị cũng mặc áo dài có điểm bông hoa tươm tất, người nào cũng có cái ví cầm tay nho nhỏ. Mình không biết bác có coi hướng để xuất hành sáng mồng một hay không nhưng năm nào cũng vậy, một đồng nam và một hai đồng nữ theo chân bác đi về hướng hướng bắc. Ban đầu cứ tưởng bác dắt lên Núi Bà xin xăm, ai dè đến ngả ba Mả Thánh bác bèn quẹo vô con đường đất đi tuốt vào trung tâm mồ mả của cư dân Đà Lạt. Thì ra bác đi thăm mộ phần của những người thân trong gia đình. Lên đến Mả Thánh mới thấy cảnh bà con đi thăm mộ phần đông ơi là đông. Sau này mình nghiệm ra đây là một trong những tập tục của đa số người Đà Lạt lúc bấy giờ. Nhìn cảnh thiên hạ đi viếng mộ mồng một Tết mình nhớ đến hai câu thơ của thi hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều tả cảnh chị em Thúy Kiều đi tảo mộ “trong tiết tháng ba”: …Ngổn ngang gò đống kéo lên/ Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay…

 

Bác dắt mấy chị em đi thăm và thắp nhang trên từng ngôi mộ. Mộ nằm rải rác đó đây chứ không cùng một chỗ, thế mà bác nhớ mộ ông, mộ bà, mộ anh em, con cháu nằm ở đâu, bác nhắm hướng đi đến là trúng phóc. Hai ba đứa trẻ theo chân bác sau chừng nửa giờ đã đổ cả mồ hôi thấm ra áo. Gần 10 giờ bác đưa xuống núi. Nghe ông bà bu mình kể rằng Mả Thánh trước là quả đồi cao thuộc sở hữu của Hoàng Triều Cương Thổ, vào năm 1936 cụ Võ Đình Dung bỏ tiền ra mua để cho dân Đà Lạt có nơi chôn cất. Thật là công đức vô lượng. Giờ thì mấy bác giải phóng đã san bằng từ lâu, không biết có xây cất gì chưa?

 

Trên đường về bác lại đưa đến chùa lễ Phật đầu xuân ở chùa Linh Sơn, gần nhà bác. Nơi đây cũng tấp nập Phật tử đi lễ đầu xuân trong những bộ áo quần còn vương mùi vải mới đủ màu sắc, các bà các cô toàn mặc áo dài vì thưở đó phụ nữ Đà Lạt chưa mặc trang phục Tây phương. Nhớ trước chùa có hai cây hoàng lan cao cả chục thước tỏa hương thơm ngát. Vô chánh điện lạy Phật ba cái rồi rút lui, còn bác thì bỏ tiền vào thùng “phước sương”. Trước sân chùa tập nập người đi qua đi lại, kẻ vào chánh điện, người vô phòng khách và có người ra sau nhà bếp, chắc là để kiếm món ăn chay.

 

Rời khỏi chùa, tưởng rằng được về nhà nhưng không, bác đi tiếp trong khi “cái bụng” của mình thấy nao nao đói. Thôi thì bấm bụng để đi theo bác chứ chẳng dám nói năng chi hết. Ngặt một nỗi là mình mang một đôi sandal mới nên giày cọ vào da chân thấy đau và nhìn xuống thấy gót chân có chỗ bị trầy rướm máu! Thằng bé lại tiếp tục đi cà nhắc theo chân bác không một lời than tiếng thở. Không biết mấy bà chị có rơi vào tình trạng “đớn đau” gót chân như mình hay không nhưng mình đoán chừng các chị cũng có vấn đề nơi hai bàn chân vì mấy đôi giày mới.

 

Tiếp tục cuộc hành trình sáng mồng một là theo bác đi thăm người thân. Trước tiên bác đưa đi thăm người em của bác ở cây số bốn, từ Mả Thánh qua đây rất gần nhưng bác đã dẫn đi ngược về chùa Linh Sơn rồi mới quay lại hướng Mả Thánh để đến số bốn thăm người em. Điều mình thích ở Đà Lạt là dù đang đi ngoài trời nóng nực chảy mồ hôi nhưng khi bước chân vào nhà là thấy mát mẻ khiến người nhẹ nhõm ra ngay. Vào đến nhà ông cậu, sau các thủ tục cúi đầu vòng tay, mình được cho uống nước cam hiệu Birley’s rồi ăn mứt mứt dừa, mứt gừng và rỉ rả bốc vài hạt dưa cho vào miệng cắn bóc vỏ để ăn, lắm khi cắn hạt dưa nát cả vỏ cũng nhai và nuốt luôn cho tiện. Bác và cậu nói chuyện và chúc Tết lẫn nhau và trước khi bước ra cửa, ông cậu lì xì mỗi đứa một chiếc phong vì đo đỏ, mình cúi đầu cám ơn và cho phong bì vào túi ngay. Hai bà chi thì mở ví cho phong bì vào.

 

Ra đường gặp lại cái nắng xuân râm ran dễ chịu, chắc là vừa mới trong nhà bước ra. Trong bụng thầm nghĩ chắc là bác đi về nhà sau hơn ba tiếng đồng hồ. Nhưng không! Bác không quay về đường Phan Đình Phùng mà bác đưa đồng nam đồng nữ đi theo đường Hai Bà Trưng đi đến tận cầu Bá Hộ Chúc, leo dốc Bà Triệu để đến đường Trần Hưng Đạo. Lâu lâu mình phải dừng lại để nhìn xuống hai gót chân xem nó trầy trụa đến đâu rồi. Trong bụng không muốn đi theo bác nữa nhưng không biết làm cách nào. Thật là “tiến thoái lưỡng nan”. Cuối cùng thì cũng phải tiến theo bác mà thôi! Đi đến nhà thờ Con Gà bác quẹo vô đường Nhà Chung, khoảng nửa đường thì bước xuống một con dốc đất gồ ghề để đến nhà một người bác của mình nằm thỏm trong ấp Xuân An. Ông bác này là một nhà nho, mặc áo dài vải the thâm màu đen, rất nghiêm nghị. Mình và hai bà chị ngồi im re cắn hạt dưa để nghe hai bác trò chuyện chúc Tết lẫn nhau để cuối cùng đám nhóc cũng có bao lì xì dằn túi.

 

Rời khỏi nhà ông bác mình mừng muốn chết và trong “cái bụng” thầm mong cho bác đừng ghé đến nhà ai nữa. Ra đến đường Trần Hưng Đạo, ngang qua nhà thờ Con Gà vẫn thấy rất đông những người đi lễ nhà thờ, không kém gì cảnh đông đúc ở sân chùa Linh Sơn. Bác đi xuống dốc lê Đại Hành trước mặt nhà thờ rồi vòng qua Cầu Ông Đạo, lên đến phố Hòa Bình, theo đường Hàm Nghi xuống dốc chùa Linh Sơn rồi queo phải về nhà. Lúc đến Cầu Ông Đạo mình thấy vô số tài tử giai nhân dập dìu du xuân quanh hồ với những tà áo dài xanh đỏ phất phới bay trong gió xuân, lên đến khu Hòa Bình thì thấy đám múa lân rộn rã tiếng trống và những tràng pháo nổ vang ở các góc phố.                                    

Vô nhà nhìn đồng hồ trên tường thấy kim chỉ hơn hai giờ. Thế là hơn sáu tiếng đồng hồ, bác đưa hai nhóc gái và một nhóc trai chạy bố show: Mả Thánh, Chùa Linh Sớn, ấp Số Bốn và ấp Xuân An. Bác mình đã mất từ lâu, nếu bác còn sống mà đọc được những điều mình viết như vầy thì thế nào cũng ăn vài cái cốc nhẹ lên đầu.

 

Tính ra tiền lì xì mình nhận được cũng đủ tiêu xài trong ba ngày Tết. Nay nhớ lại có lẽ mình cũng có cả chục năm theo bác “du xuân” trong ngày mồng một của những ngày thuộc thập niên 50-60. Làm sao quên được cái thời hoang sơ của thành phố Đà Lạt. Phong cảnh hữu tình và người thì dễ thương.

 

– Phong Châu

(Cuối năm Nhâm Dần)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.