Hôm nay,  

Năm hết Tết đến

14/01/202313:14:00(Xem: 3352)
Tùy bút

year_2023


Tháng mười hai ở xứ này cũng giống tháp chạp ở xứ mình, tháng này vào mùa lễ, mùa hưởng thụ, nghỉ ngơi, thăm viếng, sum họp… Mùa lễ bắt đầu từ lễ Tạ Ơn kéo dài cho đến tết tây, nhà cửa, phố xá trang hoàng đèn hoa rực rỡ. Người người tấp nập mua sắm, đi chơi. Nhà nhà sum họp, gặp mặt, tiệc tùng…

Thời gian lặng lẽ trôi qua không nhanh không chậm, không nghinh không tiễn, không cũ không mới, không phụ thuộc tâm lý chủ quan của con người. Con người nhìn thời gian bằng cái tâm vọng tưởng của mình nên mới có năm cùng tháng tận, năm hết tết đến. Thời gian vốn vô thủy vô chung, chẳng có xưa nay, càng không có năm tháng ngày giờ. Những khái niệm ấy là do con người chế ra chứ bản thân thời gian làm gì có. Chúng ta đến rồi đi, sanh tử luân hồi bất tận chứ thời gian vẫn vĩnh viễn vô biên tế. Chúng ta loay hoay lo cơm áo gạo tiền quanh năm suốt tháng để rồi một ngày nhìn lại thì than: “Thời gian qua nhanh quá, ta đã già, thời gian chẳng còn bao lâu nữa đâu”. Chúng ta mãi tranh nhau chỗ trú ngụ, miếng ăn thức uống, duy trì dòng giống để rồi một mai kia chỉ còn nhúm tro trong hũ cốt hay nắm đất dưới huyệt mộ tối đen. Chúng ta ra sức tận lực tranh đoạt mà bất chấp tất cả và kết cục như thế thì liệu có đáng chăng?

 

Nhiều người trong chúng ta vẫn thường than: Năm cùng tháng tận, năm hết tết đến… mà bao nhiêu việc chưa xong, hoặc là thời gian quá eo hẹp, mọi thứ còn dở dang. Thật sự thì thời gian chẳng có nhanh chậm, chẳng có gấp hưỡn, chẳng bắt đầu cũng chẳng kết thúc. Tất cả là do cái tâm của chúng ta sai xử. Chúng ta quá tham lam, quá ôm đồm đấy thôi! Chúng ta muốn mà không biết đủ, người thì mưu sự công cao cái thế, kẻ thì cầu danh vọng để đời hoặc lưu hậu thế, thấp hơn chút nữa là mưu sự giàu sang, tích lũy của cải, đất đai mà không bao giờ biết đủ, biết dừng, dồn hết công sức, tâm lực và thời gian để mưu cầu mà quên đi hạnh phúc chính phút giây hiện tiền tại nơi này. Nhà Phật gọi là “Hiện pháp lạc trú”.

 

Văn học phương tây có câu chuyện anh chàng tham lam muốn sở hữu thật nhiều đất đai, vị vua trị vì thông cảm và cho phép anh ta: “Từ bình minh cho đến khi trời tắt nắng, người chạy được đến đâu thì phần đất ấy sẽ thuộc về ngươi”, thế là anh chàng cắm đầu cắm cổ chạy, chạy quên cả uống nước ăn cơm, mệt cũng quên nghỉ để thở. Anh ta chạy từ bình minh cho đến giữa trưa và rồi đến tận xế chiều vẫn chưa chịu nghỉ. Anh ta cố chạy thêm nữa để tranh thủ thêm đất trước khi mặt trời lặn. Anh ta cố lê đôi chân rã rời, thân người rũ rượi để chạy thêm những bước cuối cùng trước khi mặt trời tắt nắng, cuối cùng anh ta gục ngã, thế là bao nhiêu đất đai, bao nhiêu công sức của anh ta hóa thành hư vô. Đất đai lại thuộc về đất đai, thời gian vẫn còn mãi đó, chỉ có anh chàng mê muội mà quên thân mình. Phần nhiều chúng ta cũng đều giống anh chàng mê này. Chúng ta quên thời gian vì tranh thủ tranh đoạt, chiếm lấy, sở hữu những thứ không thuộc về mình, duy cái hạnh phúc thực tại của mình thì lại bỏ quên.

Thời gian, ngươi là chủ tể thành tựu mọi thứ nhưng cũmg chính ngươi hủy diệt đi tất cả. Không có thứ gì có thể tồn tại mãi với thời gian. Cái ý niệm tồn tại vĩnh viễn, muôn đời, muôn năm là vọng tưởng của con người. Nhà Phật gọi thế gian này vô thường, mọi vật, mọi việc, mọi thứ thay đổi liên miên trong từng phút giây. Thời gian vô thủy vô chung, không đến không đi, không thêm không bớt, không ngắn không dài, không nhanh không chậm. Thế gian thì vô thường, tâm con người tràn đầy vọng tưởng. Bởi thế xưa nay bạo chúa tham lam cứ gây chiến để chiếm đất lập đế quốc, tàn sát để cướp của cướp đất, xây lăng mộ to lớn để dòng họ trường trị muôn năm, nhưng rồi thời gian bào mòn đi tất cả, “Quốc phá sơn hà tại” – Thơ Đường. Những đế quốc xưa giờ chỉ còn cái danh từ trong sách vở, lăng mộ bị trộm mộ đào, chính phủ đời sau khai quật. Thời cổ đại, trung đại việc gây chiến chiếm đất lập đế quốc còn có thể hiểu được. Thời đại hôm nay khoa học kỹ nghệ cao độ, đất đai không còn là vấn đề thiết yếu của sự hùng mạnh. Ấy vậy mà bạo chúa Putin sống trong hoang tưởng gây chiến tranh để chiếm đất lập đế quốc. Cuộc chiến tàn bạo và dã man đã tàn phá đất nước Ukraine, tàn sát người dân Ukrainian. Để trả thù sự kháng cự ngoan cường của họ, y hạ lệnh công kích không chừa mục tiêu nào, dù đó là nhà thờ, nhà trường, nhà thương, nhà đèn, nhà trẻ, nhà bảo tàng, shopping, cầu cống, đường xá… Tội ác của y ngập trời, bàn tay y đẫm máu đỏ, cái màu tiêu biểu của những lá cờ Cộng Sản. Đế quốc Nga không thể tái lập được, dã tâm và mộng tưởng của y không thành, thời gian đang trôi qua nhưng tội ác của y sẽ còn với tháng năm. Loài người còn thì ngôn từ văn tự còn ghi chép tội ác của y, kể cả tội ác của những kẻ hùa theo y.

 

Bên tây thế, bên đông còn tệ hơn. Tập xếnh xáng cũng hoang tưởng muốn khôi phục đế quốc Hán, muốn làm Hồng Tập đế. Y hung hãn hiếu chiến chiếm lấy biển đông của các nước Đông Nam Á, lân đất biên giới của các nước xung quanh. Y dùng chính sách cho vay để gài những chính phủ tham nhũng, sau đó buộc họ phải lập nhượng địa, giao không cảng biển, phi trường, hầm mỏ... Y đề ra “Nhất Đới Nhất Lộ” hòng thống trị cả thế giới. Tiếc là y không nhìn lại Hán đế, Đường đế, Tống đế, Minh đế… giờ ở nơi nào? Y cũng quên rằng chính chủ nghĩa cộng sản đã hủy diệt tất cả di sản văn vật của những triều đại ấy, giờ y lại muốn tái lập. Lòng tham, sự tàn độc của y quả thật cũng vô cùng tận như dòng thời gian.

 

Năm hết tết đến là cách nói của dân gian, là tâm lý huyễn mộng của chúng ta, làm gì có hết hay cùng! Hôm qua còn có hôm qua nữa, ngày mai còn có ngày mai nữa, quá khứ vô thủy vị lai vô chung kia mà!  Chẳng còn chẳng hết, chẳng đến chẳng đi, chẳng thừa chẳng thiếu… Các nhà văn, các nhà khoa học đưa ra thuyết đường hầm ánh sáng, xuyên không... nghĩa là con người có thể trở về quá khứ vô cùng tận hoặc đến tương lai vô giới hạn chỉ trong nháy mắt. Điều này rất gần với quan điểm Phật giáo là thời gian và không gian không thật, đó chỉ là từ một niệm tâm:

 

Thập phương hư không bất ly đương xứ

Cổ kim tam thế bất ly đương niệm.

 

Nghĩa là mười phương trời đất vô biên không rời một điểm hiện tại, quá khứ và tương lai vô cùng tận cũng không rời một ý niệm ngay hiện tiền. Thiền môn có câu chuyện kể rằng: Có người nằm mộng thấy mình chu du khắp Ta Bà thế giới, lên cõi thiên đường, xuống cả địa ngục. Đi về quá khứ gặp hết tổ tiên xa xưa, đến tương lại gặp vô số con cháu sau này, nhưng khi mở mắt ra thì thấy lưng mình không rời chiếu một ly, thời gian nằm mơ chỉ trong chốc lát. Thì ra cả thời gian và không gian không ngoài một niệm tâm. Cả mười phương lẫn ba thời đều do một niệm tâm biến hiện ra.

 

Nho gia bên Tàu cũng có câu chuyện “Giấc mộng hoàng kê” ý nghĩa cũng gần như thế. Chuyện kể anh học trò nghèo từ quê lên tỉnh đi thi, trên đường đi ghé vào quán trọ và nấu một nồi kê. Trong lúc chờ kê chín anh ta ngủ thiếp đi, trong giấc mơ thấy mình đậu trạng nguyên, cưới công chúa, làm quan to, công cao cái thế lẫy lừng. Thế rồi bị nịnh thần xàm tấu dèm pha nên bị biếm truất, suốt mấy chục năm trường lên voi xuống chó như thế, khi anh ta giật mình thức giấc thì nồi cháo kê còn đương sôi chưa chín. Rõ ràng thời gian và không gian không rời một điểm và giây phút hiện tại, một ý niệm sanh ra cả thời và không.

 

Sự thật là thế, chơn đế là vậy, cái nhìn như thị (look as is). Tiếc rằng chúng ta không thể hoặc chưa đủ sức để nhìn mọi sự như chúng là, Chúng ta vẫn nói và vẫn nhìn thấy năm cùng tháng tận, năm hết tết đến, đời mà!

 

Tháng mười hai tây hay tháng chạp ta, tết tây hay tết ta đều đang trên đường đến. Mọi người rộn ràng và hân hoan chờ đợi. Người Việt xứ này được (hay bị) ăn hai cái tết luôn. Tết tây bên này xong còn phải có chút gì cho gia đình mình ở quê ăn tết ta, chỉ có những người may mắn cả gia đình sum họp ở hải ngoại thì mới không còn bận chuyện tết ta.

Năm hết tết đến, công việc hãng xưởng cũng gấp rút, chợ búa shopping tấp nập người mua sắm, đường xá xe cộ ngược xuôi. Thời gian không gian dẫu không thật nhưng chúng ta cũng đang tận hưởng những phút giây hạnh phút hiện tại ở nơi này, chính tại phút giây này.

 

– Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 1/2023)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.