Hôm nay,  

Con mèo con mẻo con meo

21/01/202310:11:00(Xem: 4097)
Tạp bút ngày Xuân

Meo-Fumika Koda
Chờ đợi mùa Xuân -- Tranh Fumika Koda.



Năm Nhâm Dần sắp hết, năm Quý Mão đã lấp ló bên hiên nhà. Trong cái lạnh thấu xương của những ngày cuối đông, mọi người bỗng thấy thời gian qua mau. Mặc cho Ông Hổ gặm mối căm hờn trong cũi sắt, con thú cưng của nhiều gia đình cứ nhởn nhơ đi lại trong nhà. Nó còn bạo gan đi vào ca dao:

 

Con mèo mà trèo cây cau

Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà

Chú chuột đi chợ đàng xa

Mua mắm mua muối giỗ cha chú mèo.

 

Chuột đâu có làm tổ trên cây cau mà mèo trèo lên làm gì? Mà làm giỗ sao lại mua mắm muối? Dù có nhiều cách giải thích khác nhau, ta nên xem đây chỉ là một bài đồng dao thuần tuý, trước hết nhằm củng cố cho trẻ em những hiểu biết thường thức từ gần đến xa, từ cụ thể đến trừu tượng, trong bước đầu các cháu làm quen với sự vật hiện tượng tự nhiên và xã hội xung quanh mình.

 

Con vật trong nhà đó lại rủ rê nhau đột nhập cả kho tàng tục ngữ, thành ngữ, ca dao khác:

 

-- Chó giữ nhà, mèo bắt chuột: ai cũng có nghề nghiệp chuyên môn của mình, đừng tị nạnh nhau, đừng can thiệp vào công việc của nhau.

 

-- Chó treo, mèo đậy: Thức ăn treo cao để tránh chó ăn, đậy kỹ không để mèo lục, ý khuyên cảnh giác cửa nẻo phòng trộm cắp.

-- Chẳng biết mèo nào cắn mỉu nào: nghĩa bóng nói mỗi người đều có sở trường riêng, chưa chắc ai đã hơn ai.

-- Chửi chó mắng mèo: tức giận, mắng chửi vu vơ.

-- Giấu như mèo giấu cứt: chê người giấu giếm thứ gì, điều gì quá kỹ.

-- Không có chó bắt mèo ăn cứt: phải dùng một người không đúng khả năng, sở trường của người ta.

-- Mèo ốm bắt chuột cống: chỉ người tuổi trẻ tài cao, làm được những việc mà người lớn làm không nổi.

-- Mèo mù vớ cá rán: vận may bất ngờ đến với kẻ đang túng quẫn.

-- Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì sang: một quan niệm mê tín thời xưa còn truyền lại.

-- Mèo già hoá cáo: người già sống lâu đúc kết nhiều kinh nghiệm quý báu, người mới đầu làm việc gì thì rụt rè, nhút nhát nhưng lâu năm thì tinh ma, ranh mãnh.

-- Mèo khen mèo dài đuôi: tự đề cao, khen ngợi.

-- Mèo mả, gà đồng: hạng người vô lại, trai trộm cắp, gái lăng loàn.

-- Mỡ để miệng mèo: đặt trước mặt người ta thứ mà người ta đang thèm.

-- Như mèo thấy mỡ: giễu người tỏ vẻ hăm hở trước thứ đang thèm muốn.

-- Tiu nghỉu như mèo cắt tai: thất vọng, buồn rầu không muốn nói năng, không muốn làm gì.

-- Lèo nhèo như mèo vật đống rơm: nói dai, nói đi nói lại để van xin.

-- Hùm mất hươu hơn mèo mất thịt: càng mất quyền lợi địa vị cao càng đau khổ hơn người ở địa vị thấp.

-- Im ỉm như mèo ăn vụng: ám chỉ những kẻ cố tình che giấu tôi lỗi của mình, cố im lặng tuyệt đối, hoặc những kẻ hễ thấy lợi là giấu diếm hưởng một mình, không cho ai hay biết.

-- Chuột cắn dây buộc mèo: làm ơn cho kẻ có thể hại mình.

-- Con mèo con mẻo con meo / Muốn ăn thịt chuột phải leo xà nhà: muốn ăn thì phải làm.

-- Mèo lại hoàn mèo: bản chất thế nào thì vẫn thế ấy, khó thay đổi.

-- Mèo nằm xó bếp: chỉ kẻ lười biếng.

-- Rình như mèo rình chuột: ngồi rình một cách chăm chú, kiên nhẫn.

-- Chó chê mèo lắm lông: mình cũng xấu kém lại chê người khác xấu kém.

-- Mèo già khóc chuột: chỉ kẻ đạo đức giả.

-- Con mèo con chó có lông / Cây tre có mắt nồi đồng có quai: Câu ca dao nghe qua tưởng là giản dị vì đã nói lên những chuyên đương nhiên, ai cũng hiểu, ai cũng biết. Mèo chó có lông, tre có mắt, nhưng nồi đồng có quai thì đâu có phải là đương nhiên. Thử tìm hiểu thêm thì mới vỡ lẽ: Quảng Nam Phú Tập Ký Sự của Mai Thị do Lê Đăng Hiển sao lục đời Minh Mạng có ghi việc Ông Bùi Tá Hán, đô tướng Quảng Nam dinh ( tức vùng đất bao gồm Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và một phần của Phú Yên hiện nay) dạy dân Quảng Nam cách sinh hoạt thường ngày như xây nhà ba gian tám cột, đào giếng, khuyên phụ nữ thôi mặc quần không đáy mà mặc quần có ống như nam giới, phải làm nồi đồng có quai ở cổ để tiện việc bưng lên bưng xuống.   Nguồn gốc sâu xa là vậy nên hiểu đúng câu ca dao này cũng thật nhiêu khê.

 

Mỏi mệt với kho tàng văn học dân gian, mèo tìm chút thoải mái hơn với thơ, trước hết là thơ cho trẻ em.

 

Mèo con đi học:

 

Hôm nay trời nắng chang chang

Mèo con đi học chẳng mang thứ gì

Chỉ mang một cái bút chì

Và mang một mẩu bánh mì con con.

(Thơ Phan Thị Vàng Anh, đã đưa vào sách lớp 1).

 

Chú mèo mướp:

 

Chú mèo mướp

Thích leo trèo

Trèo không khéo

Nên nằm khoeo!

(Thơ Phạm Văn Tịnh, đã đưa vào sách lớp 2).

 

Mèo đi lạc đến miền quá khứ -- Gặp Hàn nho phong vị phú của Nguyễn Công Trứ:

 

Bóng nắng dọi trứng gà trên vách, thằng bé tri trô

Hạt mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó.

 

Rồi Nguyễn Trãi với Quốc Âm Thi Tập và bài MIÊU:

 

Lọ vằn sinh lạ mãi phương Tây

Phụng sự Như Lai trộm phép thầy

Hơn chó được ngồi khi mặt bếp

Tiếc hùm chẳng bảo chuốc leo cây.

Đi: nào kẻ cấm buồng the kín

Ăn: đợi ai làm bàn soạn đầy

Khó liền say chẳng nỡ phụ

Nhân chưng giận chuột phải nuôi mày.

 

Mèo lại đi nữa và diện kiến Cử Trị với Vịnh con mèo:

 

Mấy từng đài các sải chân leo

Nhảy lẹ chi hơn bằng giống mèo

Vuốt nanh đã có vàng khoe sắc

Vằn vện đành không bụi đóng meo

Trăm tuổi hồn dần về chín suối

Nắm lông để lại giúp trò nghèo.

 

Chừng như không hiểu thấu thơ cổ, Mèo tìm đến thơ hiện đại. Đây rồi, ông thầy dạy triết làm thơ:

 

Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm

Như con mèo ngái ngủ trên tay anh

Đôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình

Để anh giận sao chẳng là nước biển.

(Nguyên Sa).

 

Đi nữa, Mèo gặp Đoàn Văn Cừ:

 

Ông lão nằm chơi ở giữa sân

Tàu cau lấp lánh ánh trăng ngần

Thằng cu đứng vịn bên thành chõng

Ngắm bóng con mèo quyện dưới chân.

 

Rồi tới Hoàng Nhuận Cầm:

 

Ta đã đi như mèo trên phố vắng

Gọi tên con như gọi các thiên thần

Có một nốt chưa bao giờ con biết tới

Là nốt buồn cha đã nuốt thay con.

 

Và còn Đoàn Mạnh Phương nữa:

 

Chuột đuổi nhau trên căn gác cũ

Mắt mèo hoang lấp lánh như sao

Gió như muốn gọi nhau thành bão

Chém vào đêm những nhát ngọt ngào

 

*

 

Cái tính ưa đi hoang nên Mèo muốn đi xa nữa. Thôi ráng chiều vậy. Mời sang đất nước hình lục lăng đọc lại truyện cổ của Charles Perrault (1628-1703), Le Chat Botté, tức là Con mèo đi hia:

 

Câu chuyện bắt đầu với việc một bác thợ săn già qua đời và để lại gia tài là một cối xay gió, một con lừa và một con mèo cho ba người con trai. Người con trai cả giành lấy cối xay gió, người anh hai có được con lừa, còn phần của người em út là con mèo. Nhưng đó không phải là một con mèo bình thường, nó biết nói, yêu cầu chàng út cho nó một đôi hia và đã được đáp ứng. Nhất quyết muốn cho chủ mình được giàu sang, mèo đã dùng mưu bẫy được một con thỏ trong rừng rồi đem đến biếu nhà vua coi như một món quà đến từ chủ của mình, hầu tước xứ Carabas,một tước hiệu do mèo đặt ra. Ngày lại ngày, mèo đi săn và nuôi sống được chủ của mình. Bên cạnh đó nó còn đem dâng nhà vua những con mồi săn được, lúc thì một cặp gà gô, khi thì một con thỏ béo tốt, cứ thế trong vòng vài tháng.

 

Một hôm, khi thấy đã đến lúc, mèo đi hia thuyết phục chủ mình đi ra bờ sông tắm khi biết nhà vua và công chúa sắp đi qua đây. Thực vậy, một lát sau xe của đức vua đến, mèo nói với nhà vua là chủ nhân của mình, hầu tước xứ Carabas, bị trộm mất quần áo khi đang tắm, thực ra mèo đã giấu quần áo của chàng sau tảng đá. Nhà vua nghe vậy, truyền cho người hầu lấy một trong số những bộ quần áo của mình cho chàng mặc và đưa chàng ngồi chung xe. Khoác lên mình bộ quần áo của nhà vua, chàng út trông chẳng khác gì một nhà quý tộc khôi ngô và lập tức lọt vào mắt xanh của công chúa.

 

Con mèo đã chạy nhanh về phía trước theo con đường mà xe nhà vua sắp đi qua. Trên đường, gặp bất cứ người nông dân nào đang gặt lúa hay đang chăn gia súc, đốn củi, mèo yêu cầu những người đó nói với nhà vua rằng mảnh đất này thuộc về hầu tước xứ Carabas, nếu không họ sẽ gặp hoạ. Tiếp đó, mèo chạy đến một toà lâu đài lộng lẫy, hơn cả cung điện nhà vua, là nơi ở của một mụ phù thuỷ tàn ác có thể tự biến mình thành các sinh vật khác nhau. Theo lời sai bảo của mèo, phù thuỷ biến thành một con sư tử rồi cuối cùng biến thành một con chuột. Khi đó mèo vồ lây chuột và nhai ngấu nghiến. Khi nhà vua đến toà lâu đài, ngài rất thán phục trước sự giàu sang của hầu tước xứ Carabas và liền gả công chúa cho chàng. Sau đó, mèo đi hia sống cuộc đời hạnh phúc nhưng chỉ bắt chuột như một thú tiêu khiển.

 

Mèo còn muốn phiêu lưu thêm chút nữa. Rời nước Pháp bay tuốt sang Nam Mỹ gặp nhà văn Paolo Coelho. Ông có cuốn sách về sự điên rồ (Veronika quyết định chết) với bài Tầm quan trọng của con mèo trong Thiền định:

 

Một thiền sư vĩ đại của Thiền, người phụ trách tu viện Mayu Kagi, có một con mèo là niềm đam mê của mình trong cuộc sống. Vì vây, trong các lớp thiền, ông thường giữ con mèo bên cạnh để tận dụng tối đa công việc của mình. Một buổi sáng, ông chủ, người đã khá già, qua đời. Đệ tử tốt nhất của ông đã thay thế ông.

 

-- Chúng ta sẽ làm gì với con mèo? Ông hỏi các nhà sư khác.

 

Như một sự tôn vinh ký ức của người hướng dẫn cũ của họ, chủ mới quyết định cho con mèo tiếp tục tham gia các lớp học Thiền.

 

Một số đệ tử từ các tu viện lân cận, đi qua nơi đó, phát hiện ra ràng tại một trong các tu viện nổi tiếng nhất của khu vực, một con mèo đã tham gia vào các buổi thiền. Câu chuyện bắt đầu lan truyền.

 

Nhiều năm trôi qua và các chuyên luận kỹ thuật bắt đầu xuất hiện về tầm quan trọng của mèo trong Thiền định. Một giáo sư đại học đã phát triển một luận án, được cộng đồng học thuật chấp nhận, rằng một con mèo có khả năng tăng sự tập trung của con người và loại bỏ lượng tiêu cực. Và, vì vậy, trong cả một thế kỷ, con mèo được coi là một phần thiết yếu của nghiên cứu Phật giáo ở khu vực đó.

 

Cho đến khi một bậc thầy xuất hiện, người bị dị ứng với lông động vật, đã quyết định bỏ con mèo khỏi các bài tập của mình với các sinh viên.

 

Có một phản ứng dữ dội nhưng ông chủ mới nhấn mạnh, vì ông là một người hướng dẫn xuất sắc, các sinh viên tiếp tục đạt được tiến bộ tương tự, bất chấp sự vắng mặt của con mèo.

 

Dần dần, các tu viện -- luôn tìm kiếm những ý tưởng mới và đã mệt mỏi vì phải nuôi rất nhiều mèo, bắt đầu loại bỏ các động vật khỏi các lớp học. Trong hai mươi năm, những lý thuyết cách mạng mới bắt đầu xuất hiện -- với những tiêu đề rất thuyết phục như ra mắt Tầm quan trọng của việc Thiền định mà không cần mèo, hay Cân bằng vũ trụ Thiền bởi Will Power Alone, Không có sự giúp đỡ của Động vật.

 

Một thế kỷ nữa trôi qua, và con mèo đã rút hoàn toàn khỏi các nghi thức Thiền định trong khu vực đó. Nhưng hai trăm năm là cần thiết để mọi thứ trở lại bình thường, bởi vì trong suốt thời gian này, không ai hỏi tại sao con mèo lại ở đó.

 

*

 

Mèo của chúng ta còn muốn đi nữa. Lần này sang Bắc Mỹ gặp Nhà văn Edgar Allen Poe, với truyện Con mèo đen (The Black Cat).

 

Truyện là lời thú tội của nhân vật xưng Tôi. Tôi muốn kể lại câu chuyện của cuộc đời mình xoay quanh “ con mèo đen “. Thuở nhỏ, anh ta vốn là cậu bé nhút nhát, nhân hậu, yêu thú vật. Khi lớn lên, anh ta uống rượu rồi dần dần trở nên hung bạo hành hạ thú vật và đánh đập vợ.

 

Tôi khoét mắt, treo cổ con mèo đen tên Pluto, vốn là vật nuôi trước đây anh ta rất yêu quý.Hoả hoạn xảy ra, trên bức tường cháy loang lỗ hiện ra gương mặt con mèo khổng lồ và nút dây thắt cổ. Tôi hối hận và tìm kiếm con mèo trong các quán rượu.

 

Một hôm, anh ta tìm được một con mèo đen giống hệt Pluto, cũng bị khoét mắt nhưng nó có một đốm trắng ở cổ. Anh ta đem con mèo về nuôi và hứa sẽ yêu quý nó. Nhưng khi say rượu, anh lại chán ghét con mèo.

 

Một hôm khác, trên đường xuống hầm, bị con mèo quấn chân, anh ta định giết con mèo nhưng bị người vợ cản lại, nhân vật Tôi đã giết vợ và chôn xác sau bức tường trong hầm. Bốn ngày sau, cảnh sát đến điều tra. Anh vô cùng tự tin dẫn cảnh sát xuống hầm và gõ vào bức tường mới xây để chứng minh vô tội, thì có tiếng mèo kêu. Thì ra lúc chôn xác vợ, anh đã chôn luôn con mèo vào đó.

 

*

 

Mèo của chúng ta rùng mình trước câu chuyện có phần kinh dị. Hơn nữa,cuộc phiêu lưu đã khá lâu, từ lúc đi ra khỏi hang chuột nên nó quyết định trở về để tiếp tục trèo lên cây cau, hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà.

 

Mèo trở về, chuẩn bị nhận bàn giao từ ông ba mươi.

 

Và bạn đọc, nãy giờ theo con mèo đi xa rồi, cũng về đi, chuẩn bị cúng giao thừa, đón năm mới.

 

-- Thân Trọng Sơn

(Xuân Quý Mão)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.