Hôm nay,  

Tình yêu

25/01/202309:30:00(Xem: 3007)

Tản mạn


couple-in-love 


Mùa xuân đang trở lại, mùa xuân mang lại một thay đổi của đất trời và của cả lòng người. Khi xưa, nhà thơ Trần Tế Xương, trong dịp đầu xuân mừng năm mới, ông viết:

 

Xuân về chớ để xuân đi, thương kẻ quạt nồng cùng ấm lạnh, (viết cho bà Tú)

Tết mới khác gì tết cũ, vẫn người bán chữ với buôn văn. (Viết cho chính ông).

 

Ông Tú Xương quanh năm ngao du sơn thủy, mà khi năm cùng tháng tận, tết đến, ông còn biết trở về, nhớ và trở về với tình yêu của ông. Chúng ta cũng bắt chước nhà thơ tìm về tình yêu, cảm nhận tình yêu khi mùa xuân đến xem thử yêu đương dào dạt đến độ nào.

 

Nói bâng quơ là vậy, mà giờ đặt bút trên giấy, bản thân tôi giật mình vì với đề tài này, nó rộng rãi bao la quá, mà mình chưa biết nên bắt đầu ở chỗ nào. Hay là ta đọc thơ Xuân Diệu:

 

Một bận em ngồi xa anh quá

Bảo em ngồi xích lại gần hơn

Xích lại gần thêm một chút anh hơn

Ngoan ngoãn xích gần thêm chút nữa…

 

Anh sắp giận, em mỉm cười vội vã

Đến gần anh và mơn trớn em đây

Anh vui liền nhưng bỗng lại buồn ngay

Vì anh nghĩ thế vẫn còn xa lắm…

 

Có một lần tôi coi và nghe Ý Lan biễu diễn bài “Xa cách“ trên đây quá hay, nguời ca sĩ hát và trình bầy xúc cảm rất tuyệt vời. Bạn cứ nghe thử coi, cái “yêu“ của Xuân Diệu nó linh động và sâu lắng đến nỗi ta chỉ cần cảm mà chưa cần hiểu đã thấy đó là tình yêu.

 

Và ta hãy nghe Xuân Diệu định nghĩa tình yêu :

 

Làm sao cắt nghĩa được tình yêu

Có nghĩa gì đâu được buổi chiều

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt

Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu

 

Rồi một ngày mai tôi sẽ đi,

Vì sao ai nỡ hỏi làm chi ?

Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá

Chỉ biết yêu thôi, chẳng biết gì…

 

Yêu là chết ở trong lòng một ít,

Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu.

 

Bạn đừng tưởng Ông thi sĩ chỉ mộng mơ, vơ vẩn trên mây, ông khéo nhìn xa và sợ không được đền đáp… vì sợ xa cách mà ông tưởng tượng ra ngàn lối mở và viết ra cả một trời thơ:

 

Thơ ta hơ hớ chưa chồng

Ta yêu muốn cười mà không thì giờ

Mùa thi sắp tới em thơ

Cái hôn âu yếm xin chờ năm sau“

 

Thưa ngài thi sĩ, yêu là yêu, là vướng mắc, yêu là yêu không bờ bến rồi, là cho đi tình cảm, cho đi những xúc động nồng nàn, nào ai có thì giờ so bì phút đầu tiên ấy, là có được hay không được đền bù hay không? Lãng mạn là sóng tràn bờ và không so đo tính toán.

 

Thông thường, người ta chuộng tình yêu thuần hậu, có cho có nhận. Thế gian muốn cân bằng. Hạnh phúc là từ cảm nhận của hai bên trao qua gửi lại. Thế thôi quá đủ. Còn như có nên duyên vợ chồng hay không, là tùy thuộc ông tơ bà nguyệt nhớ hay quên buộc sợi chỉ hồng.

 

Có nên vợ nên chồng hay không, cảnh đời nhiều chuyện rắc rối phức tạp, dễ nhớ, dễ quên. Nhưng mà tình yêu đúng nghĩa và bền bỉ thì sống mãi trong tâm tưởng con người. Cho nên có người nói tình yêu sinh ra và không mất đi. Như tình yêu trong nghịch cảnh của Rodrigue và Chimelle trong kịch bản Le Cid của Corneille như tình yêu đầy phong vị hy sinh của Aung San Suu Kyi và chồng là Michael Aris. Họ đã luôn nghĩ tới nhau dù xa nhau trên 20 năm. Bà ở lại quê hương, luôn tưởng nhớ dù không gặp lại ông cho tới ngày ông mất vì bạo bệnh.

 

Tình yêu gặp thuận cảnh và bao nhiêu cụ ông cụ bà đã sum họp bên nhau tới già. Các cụ luôn luôn người nọ biết lo và nghĩ về người sống bên cạnh mình, đúng như một nhà tâm lý đã nói: “Hôn nhân là cái chăn vừa đủ để đắp chung mà một người trong hai, trước khi kéo chăn về phần mình luôn kiểm soát xem bạn mình đã đủ ấm chưa.“ Cái chăn ấm đó mới thực sự là tình yêu đôi lứa.

 

Bạn thân, mình có người bạn gái rất thân, chị mình thì đúng hơn, chị X, con nhà bác, chị học giỏi, nữ công, nữ hạnh, đoan trang gồm đủ, tên trên giấy tờ của chị là Nguyễn Thị Đoan Trang. Khoảng năm 1960, chị vừa 18 tuổi. Chị có người yêu, một anh chàng tuấn tú có chức vụ trong quân đội, anh đẹp người, tính tình ôn hòa lẫn cương nghị. Cuộc tình của chị Trang với anh đẹp như một bài thơ, không suy tính không so đo và lớn lên ở tuổi mộng mơ. Chị hồn nhiên chép cho anh bao nhiêu là trang thơ của T.T.K.H, và anh, anh cũng nhiều lần đọc cho bạn nghe những vần thơ âu yếm của Nguyên Sa.

 

Không có anh

Ai cầm tay cho đỏ má hồng em

Ai thở nhẹ cho mây vào trong tóc

Không có anh lỡ một mai em khóc

Ánh thu buồn trong mắt sẽ hao đi…

Tóc sẽ dài thêm mớ tóc buồn thơ

Không có anh thì ai ve vuốt

Không có anh lấy ai cười trong mắt

Ai ngồi nghe em nói chuyện thu phong?

 

Cứ thế tình yêu trôi qua êm như nhung đẹp như lụa mượt mà. Vậy mà rồi hoàn cảnh không cho phép đi xa hơn, cũng đành, cho là những năm 1965-1970 chiến tranh ở Việt Nam ngày càng thô bạo. Anh T đi liên miên biền biệt vào chiến trường. Chị tôi vẫn đi học, phụ gia đình bán buôn, mỗi ngày chị vẫn trông chờ những lá thư anh gửi về. May mắn cho họ là chưa có chuyện gì đáng tiếc xẩy ra do binh lửa. Anh vẫn an toàn đứng vững giữa vùng bom đạn giăng giăng như những hàng kẽm gai xô lệch ngoài chiến hào.

 

Nhưng những tin tức đưa về từ mặt trận, những điệu ca lời hát:

 

Tôi có người yêu vừa chết đêm qua, chết không hẹn hò, chết không hận thù, chết thật tình cờ, nằm chết như mơ…

 

Tất cả đấy, những bài ca, những tác động tâm lý của âm nhạc, của cuộc chiến làm người ta hoảng loạn, khi âm thầm, khi mạnh mẽ. Cho đến một ngày, bà mẹ khuyên con gái là, xưa nay chinh chiến mấy ai về, bà thương con bà nói con là hãy quên đi người lính chiến, mặc dù anh là lính đa tình, tình non sông đất nước… gì gì đó, cũng không bằng yên thân hơn là lấy một ông thầy giáo cho yên tâm bà.

 

Trước mắt là vậy, còn anh T, anh dù không về được thành phố, có lẽ anh cũng đã cảm nhận:

 

Thôi em xanh mắt bồ câu

Vàng thau sợi nhỏ xin chờ kiếp sau.

(Cung Trầm Tưởng)

 

Chị Trang cũng qua rất nhiều trằn trọc suy nghĩ khóc thầm. Cuối cùng chị đành thuận theo ý gia đình. Trời thương, chị vẫn sống ở đó với chồng, con nhưng rồi hằng đêm, đêm khuya, vừa ru con ngủ, chị vừa chú ý lắng nghe tiếng đại bác xa xa vọng về. Chị vừa âm thầm cầu nguyện bình an vô sự cho người chị đã yêu.

 

Đó chỉ là tự nhiên, vì tình yêu và tình thân ái nhân ái hòa trộn, lẫn lộn trong những tâm hồn cao thượng thích giữ kỷ niệm lâu bền.

 

Rồi, cũng có một lần chiến tranh dữ dội tràn về thành phố. Chị mang con chạy loạn. Trong lúc bối rối loạn ly trên đường bế con chạy giặc chị gặp lại người xưa. Họ cùng thoáng qua một chút ngỡ ngàng, rồi mừng rỡ, chị đỏ bừng đôi má dù trời rất lạnh. Thằng cu tí, con chị, đói, đòi sữa khóc vang. Anh lăng xăng giúp chị, đỡ giùm cái giỏ xách nặng nề, rồi mang bình sữa nóng của cu Tí chạy đi ngâm vô bồn nước lạnh cho nguội cho lẹ cho bé bú. Cu Tí càng la to, anh càng khoắng sâu cái bình sữa làm rơi đâu mất cắi nắp đậy. Hình như có vài giọt nước thấm vô núm vú bình nên sau đó con chị bị đau bụng ít ngày.

 

Sau này, nhớ đến chuyện di tản. Chị tôi vừa mỉm cười, rồi lặng người hình dung về cử chỉ lúng túng của anh T. Chị vẫn kể rằng, lúc chia tay, anh đứng yên nhìn theo mẹ con chị rất lâu.

 

Kỷ niệm khó quên và tình yêu khó phai, làm vơi đi nhiều tình huống gian nan, khốn khó trong cuộc sống. Bây giờ họ ở rất xa nhau hầu như không còn gặp lại. Chị tâm sự nhiều lần tình huống gian nan, khốn khó trong cuộc sống. Chị tâm sự nhiều lần tình yêu sinh ra thì không khi nào mất đi dù nó nhiều mơ mộng. Con người hằng ngày sống bằng thực tế ít ai sống cả bằng mơ mộng, nhưng mơ mộng và yêu đương bao giờ cũng là món trang sức diễm lệ làm dáng cho cuộc đời, vì cuộc đời ai cũng ca thán buồn nhiều hơn vui. Không có tình yêu, chúng ta nghèo nàn lắm!

 

Ngặt là thời buổi hôm nay, nhiều cuộc tình không bình thường ập đến. Những người trẻ tuổi họ đến với nhau đôi khi không vì cảm xúc, mà vì muốn có tiền, muốn thay đổi hoàn cảnh sống, muốn được ra khỏi xã hội Việt Nam. Nguyên nhân nội tại thì ai cũng thấy là đạo đức và lòng nhân ái thoái hóa. Tình yêu mất dần ý nghĩa, đó là sự mất mát đáng tiếc và uổng phí. Đó là sự mất mát đáng tiếc nhất trong những điều ta đã mất đi.

 

Thử hỏi những cô dâu Việt Nam lấy chồng Đại Hàn, Đài Loan, lấy chồng xa xứ, dị biệt tập quán ngôn ngữ, dị biệt luôn tình cảm… với tính cách mua bán thêm vào, liệu họ có được yêu thương và yêu thương cho đi đó là bao nhiêu? Tội nghiệp tuổi thanh xuân phải đánh đổi hạnh phúc cá nhân để lấy một số tiền, lấy một cuộc sống trong giai đoạn, không được đảm bảo vô lường nguy nan.

 

Người xưa vẫn nói: Con gái như hạt mưa sa/ Hạt vào đài các, hạt ra giếng sầu! Mọi tệ đoan xuống cấp, hoàn cảnh sống điêu linh tất cả đã triệt tiêu tình yêu của thế hệ trẻ. Tôi có một đứa con gái, nếu con sa vào đài các, tôi vui được một tháng, một năm. Còn ngược lại có lẽ buồn tới cuối cuộc đời. Thật ra không hẳn là tất cả. Nhưng đa số người trẻ không tìm thấy hạnh phúc ở đâu. Không biết tình yêu là thiêng liêng, là tự nhiên, là trân quý, nên họ không cần, không lưu luyến. Nhiều khi không cần để ý vì có cần cũng khó đến.

 

Một số em lập gia đình ở các xứ Đông Âu, Tây Âu, Mỹ, Pháp, Đức v.v… cầu mong cho các em có hạnh phúc trong tình yêu tự nhiên.

 

Hạnh phúc trong tình yêu tự nhiên không nghiêng ngả về sự hưởng thụ vật chất và kể cả sự thỏa mãn giới tính.

 

Một cuộc sống buông thả vô độ và đạo đức bỏ quên sẽ làm tình yêu biến chất là một sự đào thải đáng tiếc và nhiều thiệt thòi cần suy nghiệm lại.

 

Xin lỗi là tôi nói nhiều lời quá, nhưng tôi chỉ muốn lưu ý ở một điểm là khi nữ hoàng Cléopâtre muốn bảo vệ vương quốc Ai Cập của bà, bà phải kết hợp với đại đế César, còn khi muốn bảo vệ tình yêu của bà, bà đã sai cung nữ, thị nữ của bà, cùng với bà, ra sức mang được tướng Mac Antoine vào nơi trú ẩn (ngôi mộ) của bà, dù lúc đó đại tướng bị thương nặng và đi lang thang vất vưởng trên các lối đi của hoàng thành là lúc Octave đang mang đại quân đến tấn công Ai Cập với thế lực mạnh hơn vũ bão.

 

Tình yêu Cléopâtre, tình yêu tây phương nóng bỏng nồng cháy, hung hăng. Khác hẳn mối tình đông phương đằm thắm, dịu dàng tự nhiên của một Ando Chie Nhật Bản và ngài Kỳ Ngoại Hầu Cường Để Việt Nam. Ando Chie của xứ hoa anh đào lúc đầu là một cô gái làm tình báo thám báo. Nàng được lệnh theo dõi giám sát Kỳ Ngoại Hầu. Nhưng nhìn mãi nhìn hoài cái dáng dấp trang nhã và cử chỉ trang trọng từ tốn của người trước mặt, bà yêu Kỳ Ngoại Hầu từ lúc nào ngay bà cũng không biết, yêu ông như yêu một người yêu và lâu dần yêu như yêu một người chồng.

 

Còn ông, ông sống lưu vong ở Nhật Bản hàng chục năm trời, ông đợi cụ Phan Bội Châu sang, để cùng kết hợp cùng thực hiện phong trào đông du cứu nước. Đợi hoài. Lần lần bên cạnh Ando Chie, ông đã cảm động trước nghĩa cử ưu ái, sự săn sóc kín đáo dịu dàng của người con gái Nhật và có lần ông hỏi rằng: Ando, mình có phải Phật Bà Quan Âm của tôi?

 

Khi lưu vong ở Nhật, Cường Để mong được về lại Việt Nam. Khi về quê nhà, ông đã để lại một nắm tro tàn cho Ando Chie, bà nắm được một nắm, luồn vào trong tay áo Kimono trước khi trao lại tro cốt cho gia đình ông, mà bằng cảm tính bén nhạy, Ando biết là chồng mình rất vui lòng.

 

Thưa bạn, tình yêu là tự nhiên với những bản sắc tự nó có trong sự thơ mộng và thiêng liêng của bẩm sinh. Chúng ta nuối tiếc những căn bản thuần túy của tình cảm bao nhiêu, chúng ta càng tự hỏi làm sao để làm sống lại những thế hệ rất nhân bản, những thế hệ mà tình yêu là nguyên thủy, nguyên trang và nguyên diễm…

 

-- Chúc Thanh

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.