Hôm nay,  

Con tàu Việt Nam đi suốt bốn mùa vui (*)

2/8/202308:44:00(View: 3568)
Tạp bút

tauhoa vn


Hôm thứ Ba vừa rồi, vợ chồng tôi đến ga NTG đón hai mẹ con người bạn vào chơi trên chuyến tàu Bắc-Nam SE7 dự kiến sẽ đến ga lúc 9h15 AM, Chúng tôi ngồi ở phòng đợi cùng với những hành khách đón tàu xuôi các ga phía Nam. Nghe phía sau có lời ta thán gay gắt về tình trạng toilet ở ga. Nhìn ra sau thấy một người trung niên mặc áo pull, quần soọc nói giọng Bắc, có lẽ anh ta vừa kết thúc chuyến du lịch Nha Trang và đi tiếp. Anh ta ca cẩm với vợ rất nhiều lần, rồi với một khách mới vào ngồi bên cạnh về chỉ một nội dung, tôi bỗng dưng chột dạ và suy nghĩ, anh ta kể các chi tiết hoàn toàn không sai nhưng kết luận khá nặng nề. Nếu tình trạng này vẫn tiếp diễn thì “có du khách ‘chó’ nào thèm đến Nha Trang du lịch!” Nghe chuyện, tôi bỗng dưng thấy buồn, trong khi cả nước và tỉnh Khánh Hòa chủ trương quảng bá rộng giới thiệu hình ảnh Nha Trang thì chỉ vì một chuyện nhỏ, tình trạng vệ sinh ở ga để rồi khái quát hóa và kết luận kinh khủng đến vậy! Mặt khác, đường sắt đâu phải là phương tiện duy nhất để du khách đến Nha Trang. Có thể ông này có vấn đề về đầu óc chăng?

Trong tôi bỗng dưng xuất hiện một chuỗi liên tưởng dài dòng, từ các chuyến Sky Train hay Metro từng sử dụng trong 4 năm ở Bangkok, vài chuyến tàu từ Monstreux qua Vevey đi Geneve và ngược lại trên tàu SBB không bao giờ đến trễ trong thời gian ở Thụy Sĩ và rồi “con tàu Việt Nam đi suốt 4 mùa vui”. Liên tưởng để đau lòng cho đất Việt!

 

Sau 1975 việc khôi phục những hư hại trong chiến tranh và hình thành tuyến đường sắt thống nhất Bắc-Nam là một cố gắng phi thường của chế độ mới. Ở “vùng giải phóng” các anh “phá đường tàu” (như dân Thanh Hóa) (**). Và sau, các anh khôi phục lại, kể cả các anh phá nát tuyến đường sắt Tháp Chàm-Đà Lạt lấy sắt bán phế liệu để rồi các đầu máy được Thụy Sĩ mua về sử dụng và các anh đứng nhìn thèm thuồng!

 

Bạn bè, người thân cùng thế hệ với tôi là cư dân Đà Lạt xưa cứ mãi xuýt xoa, tiếc cái ngày xưa vang bóng đã từng thích thú khi đi trên lộ trình này lúc nhỏ, có người phẫn nộ về việc làm ngu ngốc này mỗi khi có ai đó nói đến!

 

Tàu lửa những năm bao cấp trở thành phương tiện giao thông liên tỉnh Bắc-Nam phổ biến trong lúc máy bay chưa có nhiều, xe hơi cũng vậy, chưa kể các địa phương sử dụng cả xe than trên các tỉnh lộ! Cả một pho sách ngàn trang cũng nói không hết những hỷ, nộ, ái, ố về chuyện những con tàu, chuyến tàu và việc đi tàu, từ mua vé đến các dịch vụ buôn bán trên tàu.

Hôm học trò cũ ở Cam Ranh mời dự kỷ niệm 45 năm ngày các em ra trường, trong lúc uống cà phê sáng, tôi ngồi trò chuyện với các đồng nghiệp cũ, ông Hiệu trưởng là dân Nghệ An kể rằng đã từng đứng một chân trong suốt chuyến từ Vinh đến Nha Trang, tôi nhớ lại và góp thêm chuyện đi trên chuyến tàu bão táp Tuy Hòa-Sài Gòn hồi đầu thập niên 80 thế kỷ trước. Tôi cũng “chỉ đứng được một chân”, chân này mỏi thì đổi chân khác suốt chuyến. Lý do là sàn tàu nhung nhúc những “dân khu IV” với ba lô con cóc là hành lý đem theo làm gối nằm chật sàn tàu. Duy nhất chỉ một nơi có thể ngồi: toa hàng ăn nhưng ngồi đây chỉ được 5 phút, đủ để uống xong ly nước, ăn xong ly chè hoặc ăn tô mì gói. Muốn ngồi tiếp, phải mua phiếu ăn uống khác!

 

Đã hơn 45 năm từ khi đường sắt hoạt động trở lại (tháng 12/1976) mà nhà vệ sinh ở ga và trên tàu vẫn luôn là ác mộng đối với trên 70% khách đi tàu, nhất là những hành trình trên 50km. Hôi hám, dơ dáy, chật chội, phải chờ đợi cả khi mình đang… “mót”! Tiểu tiện thì không nói gì nhưng đại tiện thì kinh hoàng, gặp phòng “xí bệt” thì còn may nhưng “xí xổm” thì đáng sợ. Nhiều người ở xa về thăm quê hương, muốn đi tàu để thưởng thức cái thú ngắm nhìn quang cảnh hai bên đường lúc hừng đông trên biển, những hoàng hôn nơi chân núi hay những đêm trăng sáng, nhưng rồi, hỏi đến WC thì bỏ ngay ý định!

 

 Cô bạn ở xa của tôi, một người rất phóng khoáng và quảng đại, không có nhiều thì giờ để phê phán những việc không tác hại trực tiếp đến mình nhưng khi nghe tôi kể chuyện, thì than dài thở vắn, buồn cho dân tộc mình khi cô đã từng chu du Đông Tây, thấy và biết chuyện “nhà vệ sinh” ở nước ngoài!

Trách cứ, phê phán nếu có nhưng chỉ nhằm vào ngành đường sắt thì không công bằng vì không thể không nói đến ý thức của người sử dụng. Ý thức giữ gìn vệ sinh nơi công cộng của dân mình cũng là điều đáng đặt ra. Người Việt nói chung không coi trọng việc này, phóng uế, xả rác, vất tàn thuốc bừa bãi ngoài công lộ hay nơi công cộng với họ là việc bình thường! Không rõ chương trình cấp tiểu học giảng dạy cho học trò vấn đề này như thế nào ngoài “5 điều bác Hồ dạy” (có điều thứ 5 là giữ gìn vệ sinh thật tốt) nhưng so sánh giữa con em người Việt học chương trình ngoại quốc và con em ở Việt Nam  cùng lứa tuổi thì ý thức giữ vệ sinh khác xa nhau!

 

Đã hơn 45 năm nhưng đường sắt Việt Nam vẫn giữ khổ 1000mm từ thời Pháp xây dựng (1881) trong khi phổ biến trên thế giới nhiều năm nay là đường khổ 1435mm. Đó là lý do mà khi tàu chở nặng, chạy nhanh, xuống dốc gặp đường vòng cung rất dễ tạo ra lực ly tâm gây tai nạn thương tâm như hồi đầu thập niên 1980 ở Bàu Cá, Đồng Nai với hàng trăm người chết!

 

Gần đây, việc mua vé online có nhiều thuận tiện nhưng ngày xưa, mua vé tàu về Tết là cả một chặng đường gian nan thử thách. Có vé đã là vấn đề mà đi tàu lại càng khổ cực hơn. Có bao giờ bạn ngồi trên một toa tàu ghế cứng ra bắc từ 24 đến 29 tháng chạp âm lịch? Hãy thử đi rồi biết. Các nhà ga không bán vé tuyến gần, từ Sài Gòn muốn mua vé đi Nha Trang phải mua đến Đà Nẵng, muốn mua vé đi Huế phải mua đến Hà Nội. Lối đi giữa hai dãy ghế cũng bán vé “bổ sung” gọi là ghế “xúp”, khách ngồi trên ghế nhựa vuông nhỏ đặt sát nhau, mỗi lần có xe đẩy bán thức ăn đi qua là phải đứng dậy giạt sang hai bên tức là khoảng trống giữa hai ghế đối diện, nơi luôn có người trải chiếu nằm la liệt. Mà xe bán hàng thì khoảng 15 phút chạy qua một lần. Đặc biệt tội nghiệp là những cặp vợ chồng trẻ có con nhỏ. Vậy mà, không hề nhìn thấy nét bực bội khi phải tránh đường. Có lẽ niềm háo hức được về quê ăn Tết đoàn tụ với gia đình sau cả năm đi làm xa đã xua tan những bực bội đó.

 

Trên các toa giường nằm, tiện nhất là phòng 4 giường thì giá đắt, phòng 6 giường tầng 1 thì bị khách ở các tầng trên “xin” ngồi tạm và tầng 2-3 thì khi cần không thể ngồi do quá thấp. Hệ thống cấp nước nóng ở đầu toa khi có khi không, âm thanh để báo ga sắp đến cho khách có lúc không nghe được dầu có cả thông báo bằng tiếng Anh. Tàu đang chạy, không thể nào tìm được kiểm soát viên (trưởng tàu) để hỏi thông tin hoặc nhờ vả khi cần vì anh ta “bán” chỗ nằm của mình ở đầu toa cho khách.

 

Trở lại chuyện ông hành khách than thở ở trên, tôi không xa lạ gì vì ga Nha Trang trước đây có một toilet nhỏ trong phòng đợi ngay cửa ra tàu nay đã khóa kín, quán cà phê ga không có toilet. Ở nơi đợi tàu mới có hai phòng nhỏ, không sạch sẽ gì và phía cuối nơi giữ xe cũng có hai phòng nhưng dơ dáy không chịu nổi, lại không có giấy vệ sinh và nước rửa tay cho khách vì không có lavabo bên cạnh mà chỉ có một phuy nước to đùng với một gàu múc không nhỏ!

 

Hiện nay, thấy Nha Trang đang chỉnh trang lại nhà ga, vài đoạn ray và  các công trình phụ. Hy vọng sẽ bớt nhận được sự than phiền của khách đến và đi từ ga này. Hy vọng ngành đường sắt Việt Nam cũng có những cố gắng tương tự để không còn bị mang tiếng và thành phố Nha Trang vẫn luôn là nơi đến lý tưởng cho du khách vì có bờ biển đẹp, được đánh giá là một trong số 29 vịnh biển đẹp nhất thế giới và người dân ở đây luôn rất thân thiện, hiền hòa.

 

– Nguyễn Hoàng Quý

 

(*) Câu đầu bài hát của nhạc sĩ Phan Lạc Hoa, một tài năng bạc mệnh.

 

(**) Dân Thanh Hóa: “Ăn rau má, phá đường tàu”.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.