Hôm nay,  

Vài ý rời về… “Đêm thơ văn Nhã Ca”

13/02/202312:50:00(Xem: 2802)
Nha Ca TDT Jimmy
MC Jimmy Nhựt phỏng vấn nhà văn Nhã Ca trong ct sinh hoạt ra mắt sách O Xưa, Westminster. Photo: Patrick Hoàng

 

Nói một tiệc lễ Thượng Thọ do con cháu tổ chức theo phong tục quê nhà thì không đúng. Nói lễ ra mắt tập truyện ngắn O XƯA cũng chưa chính xác, dù có bán sách, có tác giả ký tặng, có người hào phóng ôm cả mươi đầu sách...

 

Nói dạ tiệc  kỷ niệm một đời thơ văn Nhã Ca nghe có lý hơn: sinh hoạt  thơ- văn, ca-vũ-nhạc,  đã diễn ra suốt tối Thứ Sáu tuần rồi ở căn The Villa với đầy ắp nét nồng ấm tình văn nghệ sĩ Quận Cam dành cho Nhã Ca, quả là hiếm hoi trong kỳ “ hậu Covid 19” với hơn hai trăm người đến dự gồm nhà văn, nhà báo, họa sĩ, tài tử, ca sĩ, MC,  nhóm chuyên mục “Viết về nước Mỹ”  cùng các kỹ thuật viên online cùng phóng viên tờ Việt Báo và các thân hữu từ khắp nơi ...v..v..

 

Trên sân khấu tí hon của căn phòng được thiết kế âm thanh, ánh sáng ấm cúng như một quán trà hay căn phòng sinh hoạt, một số thân hữu như tài tử Kiều Chinh, ca sĩ Khánh Ly…  nhắc lại các kỷ niệm gắn bó với đời thơ văn  bà Nhã Ca kể từ những năm đầu thập niên 1960.  Nhiều người khác như nhà thơ Đỗ Quý Toàn (cũng là bình luận gia Ngô nhân Dụng), nhà nghiên cứu Phật học Nguyên Giác (tức Phan tấn Hải, cựu chủ bút Việt Báo), giọng opera tên tuổi Bích Liên, nhà thơ Ngu Yên về từ Houston…v..v.., đã nói chuyện và trích đọc một số bài thơ Nhã Ca mà họ từng yêu thích, thu hút cử tọa lắng nghe…

 

Bài thơ làm nên tên tuổi Nhã Ca và nằm trong ký ức đông đảo thanh thiếu niên mê thơ Nhã Ca dạo 1960’s, bài HỒI CHUÔNG THIÊN MỤ,   đã được minh họa qua vũ điệu đơn độc của nữ vũ công ballet, cùng giọng đọc chậm rãi pha chút bùi ngùi của chính tác giả đã mở màn đêm văn nghệ ra mắt cuốn O XƯA này. Điệu múa bay bổng mà lại lột tả chân xác từng tâm trạng cô đơn, khắc khoải  của người thiếu nữ đất Kim Long, chỉ có người bạn tâm giao là tiếng vọng, tiếng rung ngân thanh thoát từ những hồi chuông chùa giữa đêm khuya tĩnh mịch, thuở nào. 

Nicole
Vũ điệu ballet minh họa bài Tiếng Chuông Thiên Mụ do vũ công ballet Nicole Voris trình bày, biên soạn bởi Thắng Đào. Photo: Nguyễn Lập Hậu.

 

Phòng trà sinh hoạt tuy không hề có chuông Chùa, mà sao toàn thể cử tọa ngồi yên ắng lắng nghe. Người vũ công mảnh dẻ, đẹp như tranh Nguyễn Trung, Đinh Cường, uyển chuyển qua một vài động tác như muốn nói người trong Thơ đang thao thức, chờ nghe tiếng chuông ngân. Lúc ấy, tôi có cảm giác khán giả đang nín thở, chờ nghe tiếng đại hổng chung vọng rung từ đỉnh đồi chùa Linh Mụ. Ấy là khi giọng Nhã Ca diễn đọc bài thơ: 

    
 “Tiếng chuông buồn vui rợn thấu trong da 

      Người với chuông như chiều với tôi”

      ……

      “Nhưng sao chiều nay bỗng bàng hoàng nhớ 

      Tiếng chuông xưa giờ sống lại trong tôi

      Tiếng chuông xưa, kìa tuổi dại ta ơi

      Chuông òa vỡ trong tôi nghìn tiếng nói,”

        

       Rồi tiếp đó:

        
      “Những mảnh đồng đen như máu phục sinh

       Những mảnh đồng đen kề vai bước tới!…

        và:

      Tôi thức dậy rồi, chuông ơi chuông hỡi

      Thức dậy cùng giông bão!

      Thức dậy cùng lịch sử.”

          …

Nhiều bài ca phổ từ thơ Nhã Ca, đã được ca sĩ Khánh Ly cùng một số giọng ca thế hệ sau, hoà nhập trong niềm vui chúc tụng sự nghiệp thơ văn của người cựu nữ sinh Huế này. Họ trình bày thật sống động, ấm áp, tự nhiên như thể sân khấu là phòng khách của một gia đình đang sum họp với người thân yêu! Cử tọa vốn là thân hữu, kể cả ba vị ni sư thiền tông, đều bày tỏ niềm hân hoan bằng những tràng pháo tay và nụ cười tán thưởng. 

 

Một tiết mục đáng nhớ (theo tôi) trong chương trình ra mắt sách là cử tọa được nghe giọng cô Lê đình Y Sa, một nhà làm văn nghệ trẻ từ hội VAALA,  giới thiệu và đọc trích đoạn tác phẩm mới của Nhã Ca: cuốn O XƯA. Đây là sách thứ 50 của nhà thơ nhà văn này sau sáu mươi năm cầm bút. 

 

Vậy mà vẫn còn cả ngàn trang bản thảo, sáng tác chưa in, theo như giới thiệu trên bìa sách.

 

O XƯA, tập truyện ngắn phác họa sinh hoạt xã hội và con người VN trong bối cảnh còn chiến tranh lẫn lúc đã hết chiến chinh. 

 

O XƯA, thuật lại chuyện một cô gái mất trí thời tác giả còn bé, mà nhiều người Huế vùng dốc Nam Giao nay còn nhớ. Thành phố nào cũng có các cô gái, bà già điên điên, mát mát, thưởng bị dân gian gọi là Mụ điên, Con điên.  Vậy mà cư dân vùng Nam Giao thuở ấy gọi bằng O, nghe thật trân trọng.

 

Phải chăng O XƯA này toát lên chất “Liêu trai”, khiến các bà nội trợ Huế có chút kiêng dè, gọi bằng O rất vai vế. Cũng nhờ vậy, truyện O Xưa cũng… rất liêu trai!

 

Mụ điên O Xưa, qua ngòi bút Nhã Ca, mang cả nhân tính lẫn thánh thần. O luôn tin vào thượng đế đã đặt để số phận mình, và ban phát cho  những đứa con. Dưới mắt người địa phương, thực ra O Xưa liên tiếp bị chứa hoang, những đứa con hoang không cha, bởi chẳng ai thừa nhận. 

 

O XƯA luôn sống trong mơ. Mơ một Chàng Ba ở trên cao, một người yêu hay đấng thần linh? Có ai chịu tiếp cận để phỏng vấn O đâu. Cái bi thảm cuộc sống là ở chỗ đó. Nhã Ca đã nhớ lại lời kể của bàng dân thiên hạ, O Xưa tuy điên, nhưng có phá phách, chửi bới, gây gỗ ai đâu, mà còn cả gan đến vuốt mắt những người chết trong chiến tranh, hoặc bị trả thù. Vậy thì O Xưa đâu có điên. Cái lắt léo của truyện ngắn Liêu trai này, vừa rất đậm chất liêu trai, vừa đậm tình người.

Theo tác giả, chuyện thực bảy tám chục năm trước, là thực hay là hư cấu? ai mà biết. Tôi thì cho rằng  O Xưa chắc mang bịnh hoang tưởng, một chứng tâm lý rất nhiều người bị.  Nhưng thắc mắc làm chi, chỉ biết O XƯA là một truyện liêu trai thật hay, ai chưa đọc nên tìm đọc.

 

Và, ý rời cuối cùng: đêm văn nghệ đánh dấu ngày ra mắt cuốn O XƯA, thật trên cả tuyệt vời!  Tuyệt vời từ chuyện tổ chức công phu, trang trí thanh nhã từng góc phòng, kệ sách, chương trình và lời lẽ súc tích từ các MC, diễn giả, vũ công, ca sĩ, nhạc sĩ v..v đến các món ăn và các món tráng miệng cùng quầy trà rượu,  cùng dàn “volunteer” phục vụ ân cần giúp chương trình đã được biên soạn tổ chức công phu vượt lên trên cả tuyệt vời.

 

Nói theo chữ “thời đại”, buổi dạ tiệc đã hoàn thành…viên mãn!

               

 

Nguyễn Hiền
Một người được mời tham dự, viết nhanh gửi Việt Báo như một lời cám ơn.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”... Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v... qua những phương tiện truyền thông khác.
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.