Hôm nay,  

Trang Thơ

18/02/202312:38:00(Xem: 2644)
duythanh 6
Phóng họa của Duy Thanh.



CHÚC THANH

Một bông hồng tặng người dũng sĩ Ukraine

 

Có khu rừng, một ngày kia nắng hạn

Nhựa khô dần trên từng phiến lá im

Có con suối băng mình đi hối hả

Sợ đường dài nên vất vả ngược xuôi.

 

Đá có ngăn, cứ ào lên mà tiến

Núi có chia, lao thẳng xuống chân đèo

Dẫu con đường đầy chất ngất cheo leo

Suối vẫn tới vì suối là sự sống

 

Bên khe đá, có bông hồng nhỏ bé

Cố vươn người ra khỏi kẽ rêu xanh

Đứng nghiêng mình bên dòng nước uốn quanh

Cất tiếng nói vẻ vụng về trang trọng:

 

Suối của tôi, khi con người bái vọng

Trước bàn thờ, khi cất giọng tạ ơn

Thì bánh quà, hoa, trái ngát hương thơm

Người bầy biện chất chồng nhiều lễ vật

 

Riêng có tôi, dẫu lòng thành chất ngất

Chẳng có gì ngoài một chút hương hoa

Xin vui lòng đem tới những nơi xa

Xin nhận lấy tấm lòng nầy lễ vật

 

Ngày hôm nay trên nhiều miền trái đất

Như cỏ cây như sỏi đá âm thầm

Có bao người đang sống giữa tối tăm

Trời đất rộng hoang tàn đầy mộ chí

 

Như hạt bụi vật vờ đường thiên lý

Con ốc cũng mòn mỏi giữa vòng quay

Họ là gì? Trong suốt cuộc đổi thay

Khi đã mất cả đến quyền suy nghĩ…

 

Như thần thoại: có một người dũng sĩ

Được nữ thần trao ngọn lửa tự do

Tóc phai mầu, trán xếp những âu lo

Chàng vội vã đem đến miền băng giá

 

Để sưởi ấm trái tim người hóa đá

Để cùng đi soi bóng đến tương lai

Ngọn lửa này chẳng phải của riêng ai

Vì lửa ấy vốn hào quang thượng đế

 

Nhưng bóng tối tự muôn đời vẫn thế

Chẳng bao giờ tin cậy ở tự do?

Đường đạn bay gồng nặng những âu lo

Đã lao tới rít lên lời thù hận

 

Thế là hết giữa đêm dài bất tận

Những vì sao đã tắt giữa hư không

Con đường đi đầy đẫm vệt máu hồng

Nắng đã tắt cuối chân trời u tối

 

Nhưng không!

Nhiều dũng sĩ vẫn đứng lên

Họ đứng lên bởi một phép nhiệm màu

Bởi ý chí. Bởi quê hương. Trách nhiệm.

 

Người đứng lên như chưa hề ngã gục

Vâng

Người vẫn đứng lên

Vì người là sứ giả

Đường vạn lý dẫu muôn ngàn vất vả

Thông điệp này phải tới khắp muôn nơi…

Florida, Kiev hay Paris…

Người phải tới, vì lòng người hiểu rõ

Khi ngôn ngữ đã bị nhiều phản bội

Thì kiếp người như thể kiếp vô sinh

Khi tư tưởng đã tiến hành pháo kích

Thì ngục hình vây kín cõi Ukraina

 

Khi quyền sống bị đạn bom cày nát

Thì kẻ thù là ác quỷ nay, mai

Người đứng lên qua muôn vàn đổ vỡ

Mong hòa bình xích lại với tương lai.

 

-- Chúc Thanh

(Paris 6-2-2023)

 

*

 

 

THY AN

Tiếng tù và

 

thổi tù và giữa đồng không mông quạnh

tiếng kêu vang xa

thổi ống đồng vào đám than hồng

lửa sáng đêm tàn

hành động cô đơn thê thảm

 

cạn kiệt ngôn ngữ

đôi khi nổi khùng

đọc lùng bùng ngụ ngôn của Tây của Tàu

buồn buồn nhìn cảnh đời trước mặt

sống lánh xa

 

vẫn nghe tiếng tù và của ai vọng lại

không giống tiếng kèn, không như tiếng trống

day dứt, thật dài, thật rộng

lắc lư bóng người trên đá

 

tiếng của tiền sử trên núi, trong hang

ánh lửa đêm tàn bập bùng ẩn hiện

tiếng kêu ma quái của quá khứ          

đang biến thành vô thanh xoáy lòng

nhìn đêm thật xa…

 

– thy an

 

 

*

 

QUẢNG TÁNH TRẦN CẦM

dị bản đầu năm     

 

 

1.

thật là khốn khổ

đứng / nằm / ngồi đều soi gương

đứng / nằm / ngồi đều tạo dáng selfie

đứng / nằm / ngồi đều hát karaoke

đóng chai ngày tháng thả trôi trên dòng ảo giác

nhìn cuộc đời lướt qua như chuyến du lịch vô định

không điểm đến

lạc giữa vũ trụ bao la

ở góc xa

bên kia dải ngân hà

ngẩn ngơ khóc thét

chờ tới phiên bốc hơi vào hư không

thật là thống khổ.

 

2.

chẳng phải ChatGPT là Chat Giải Phóng Thơ?

không còn cực khổ mần thơ như mần ruộng

không còn cực khổ mần thơ như đẽo đá tạc tượng

trí tuệ nhân tạo trong tích tắc phun châu nhả ngọc cả rổ cả thùng

thay thế đứa mần thơ dở hơi vô tích sự ăn cho nhiều uống cho lắm

bụm miệng nàng cười khúc khích

nhìn chữ nghĩa thơ phú rơi rớt đồm độp

liên tục dưới mái hiên

trên sàn nhà

bên vỉa hè hàng quán

và vẫn thế vẫn thế

vẫn là nàng  ̶ ̶ ̶  như thị như thị

mím môi cười rúc rích

vẫn là nàng  ̶ ̶ ̶  robot dễ thương. 

 

– Quảng Tánh Trần Cầm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.