Hôm nay,  

Hài Cú Lập Xuân

10/03/202300:00:00(Xem: 4749)
Hai Cu lap Xuan
“Gái Xuân Bẻ Mận – Beauty Breaking An Ume Branch*”
Tranh Suzuki Harunobu (1725-1770)
 
Ngày Xuân Phân là ngày chính giữa của mùa Xuân theo âm lịch và cũng là ngày đầu tiên của mùa Xuân ở Bắc bán cầu theo dương lịch (Vernal Equinox). Trong ngày này, thời gian của ban ngày và ban đêm bằng nhau, nói cách khác là âm dương cân bằng. Nhờ thế vạn vật bắt đầu sinh sôi nảy nở, hoa sẽ dâng hương cho niệm xuân tình.
 
Trong một ngày lập xuân nhiều thế kỷ trước, Sư Huyền Quang [?] ngẫu nhiên bắt gặp hình ảnh một thiếu nữ bên song liền viết bài “Xuân Nhật Tức Sự”. Bài thơ tả người thiếu nữ đang thêu thùa, bỗng chim hoàng oanh líu lo từ lùm tử kinh bên ngoài khiến nàng ngừng mũi kim. Không tiếng lời vì xuân tràn trong ngỏ ý, ngoại cảnh cũng như tâm tư. Nói lời gì cũng bằng thừa khi mạch mới tràn dâng. Nụ đang chúm, không chỉ hoa, nụ còn là môi bung cánh sen, đỏ hường xuân thắm. Bởi vì bây giờ đã sang xuân. Xuân đang thì...
 
Trong một bài thơ khác, “Xuân Cảnh” của Trần Nhân Tông, nhà vua và khách cùng im lặng trước sự diệu kỳ của núi lam xuân thì trước mặt.
         
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
Cộng ỷ lan can khán thuý vi.
 
Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế,
Cùng tựa lan can nhìn núi mây.
(Bản dịch của Huệ Chi)
 
Hai bài thơ cùng nói đến Xuân, mượn ý Xuân và sự im lặng khi đối mặt như một ẩn dụ về chân lý không thể nghĩ bàn? Cùng một cảm ứng, Mizuhara Shuoshi, nhà thơ Nhật Bản cuối thế kỷ 19, “chạm mặt” Xuân khi hé nhẹ cửa chùa, lặng người trước giàn hoa xuân phơi phới bên ngoài. Kỳ thú ở chỗ phản ứng không lời của họ, người ngừng thêu, vua quan thôi nói, kẻ chạm khẽ cửa chùa, không hẹn mà cùng giao thoa một ý. Niềm thinh lặng và tròn đầy của vô ngôn trong giờ sáng tạo – Xuân. Mênh mông bất tận nằm ở phía sau những cái không thấy được, không nói được, mênh mông ấy nào thiết đến ngôn ngữ. 
 
Ashibi saku/ Kondo no to ni/ Waga furenu
         
The Japanese andromeda blooms.
The door of the kondo
I touched.
(Mizuhara Shuoshi)
 
Nhành đinh lăng mở sắc phơi
cửa thềm chánh điện
một tôi chạm mành. (*)
                    
Mấy thế kỷ sau, bên cạnh “cành lê trắng điểm”, một người con gái đọc thư dưới trăng, một hình ảnh thơ mộng như chưa từng thơ mộng. Trăng đêm ấy nhất định phải sáng lắm, dạt dào như tiếng lòng em rộn rã,Hoa lá ngây tình không muốn động / Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi” (Hàn Mặc Tử). Đó là thư tình với nhiều hẹn hứa, lời khêu mở khát dâng hay chỉ là một lá thư thường tình? Đố ai biết, có thể là một ẩn tình, một dấu hỏi trong đêm xuân, chỉ có trăng làm chứng, nhưng thật sự có cần nên biết? Buson kể lại như thế này,
          
nashi no hana tsuki ni fumi yomu onna ari
                   
Pear trees in flower
a woman reads a letter
by moonlight
(Buson)
         
Lê trổ bông
gái hong thư
trăng ngời giấy chữ thốt thưa xuân tình (*)
         
Thôi thì ta cứ giả thuyết như vầy, “rồi một hai ba năm... với em anh chăn tằm, với em anh dệt vải...” (Nguyễn Bính).
                
Một trong những đặc tính của thơ hài cú ví như chiếc máy ảnh, thu nhiếp khoảnh khắc đang biến dịch, khi thời gian là sự vận hành liên tục từ quá khứ qua hiện tại và tiến vào tương lai trong từng sát na, đơn vị đo lường thời gian nhỏ nhất trong Phật giáo. Theo lý thuyết nhà Phật, dòng thời gian là một chuỗi vô thủy vô chung, không thể phân định được đâu là quá khứ, hiện tại và tương lai, nên cả ba thời đều có chung một tướng, đó là vô tướng. Luận sư Vô Trước quan niệm thời gian là sự tiếp nối tương tục của nhân và quả. Ánh sáng chuyền lan ánh sáng, thái dương đi xuống tiếp tay làm cuộc hôn phối ngày đêm. Ánh sáng không tắt, chỉ chuyển ngôi, như thời gian, làm sao phân định trước/sau? Chiều chưa hề chấm dứt bước đi khi nắng hóa sinh đơm ánh nguyệt lộng đêm huyền, tấu bản giao hưởng diệu kỳ nhất của một hoàng hôn mùa xuân. Buson ví tiến trình đó như hai ngọn nến luân lưu nguồn sáng, giữa mặt trời và mặt trăng, từ mùa đông đến mùa xuân, một sự liên tục của thời gian không dứt. Vi diệu thay cái đang đi không thể bắt gặp lại lần nữa...  
         
shokunohiwo shokuni utsusuya harunoyuu
                     
The light of a candle
Is transferred to another candle —
Spring twilight
(Buson)
         
Lửa hồng lạp
nến chuyền luân
lung linh thắp vòm đêm xuân giao mùa (*)
         
Xuân đến không chỉ báo tin bằng hoa mà còn bằng hương, hương mận và trăng lụa. Mận là mơ, là cô gái đôi tám bẽn lẽn bên vườn mang hương trinh gọi mời ong bướm. Không nồng nàn như dạ lý hay quyến rũ của ngọc lan, mận mang hơi hướm bưởi nhưng nhẹ hơn, tỏa hương về khuya nhắc nhở đôi tình nhân thời gian hẹn hò chẳng còn bao nhiêu, “Hoa bưởi thơm rồi: đêm đã khuya...” (Xuân Diệu). 
         
Haru moya ya/ Keshiki totonou/ Tsuki to ume
                   
The spring haze.
The scent already in the air.
 The moon and ume.
(Basho)
         
Làn sương xuân
trời lựng hương
nguyệt soi nhánh lặng treo vườn mơ đêm (*)
         
Theo thông thường ước lệ, hoa nở sẽ gọi niềm vui, và hoa rụng nhắc điều mất mát. Những bài hài cú thăng hoa không chỉ diễn tả sự đến đi của xuân nhưng vượt lên trên sự đến/đi, có/không để nhắm đến chân lý hàm ngụ phía sau. Thơ tạo khí hậu an nhiên khi kể chuyện nở/tàn như sự chuyển biến của dòng sống luân lưu không ngừng, cái mất đi mở đường sinh hóa cho cái khác tồn tại. Điểm đỉnh là sự hồn nhiên vô hạn, vượt lên trên mọi ràng buộc, bình yên khi ngắm hoa bung, thản nhiên khi chứng kiến hoa mất. Basho vào cảnh giới ấy khi ông viết,
         
toshi doshi ya / sakura o koyasu / hana no chiri.
         
Year after year,
 falling blossoms
nourish the cherry tree.
(Basho)
         
Năm tháng trôi tuế nguyệt bào,
hoa phôi pha
tụ cội đào luân sinh. (*)
         
Những mùa xuân đi qua, những bài hài cú ở lại, những hạt sỏi trắng lóng lánh bắt gặp đâu đó ở tuổi thơ, những chùm hoa dại khiêm nhường hé cánh vệ đường, lời hát Phạm Duy không dưng trở về gõ những nốt trầm, “Làm sao mà quên được / Đời qua vút như tên / Dăm ba hạnh phúc ngắn / Sao quên được mà quên... Người hay cười e thẹn / Miệng như trái mơ ngon / Đôi môi màu sắc pháo / Thơm như là quê hương...” Không trách Buson đăm chiêu khi mùa xuân “ấy” đi qua, “ấy” sẽ về đâu bây giờ?
         
arukiaruki monoomou haruno yukuekana
         
With pensive steps
I muse over
Spring's whereabouts.
(Buson)
         
Trầm ngâm bước
 tư lự tôi
 mùa xuân đi một tiếng hồi vô tăm. (*)
         
 
Vũ Hoàng Thư
 
(*) Vũ Hoàng Thư phỏng dịch haiku từ Anh ngữ. Các bài haiku trên đây được trích từ https://www.masterpiece-of-japanese-culture.com
  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.