Hôm nay,  

Nói lái mà chơi, nghe lái chơi

3/29/202317:11:00(View: 12748)
Tạp bút

chui-nhau


– Đúng bọi rồi, dừng chân ơm căn đi thôi.

 

– Nếu anh không ngại, tôi sẽ mời anh đến quán mộc tồn gần đây, quán lão Điền đó.

 

– Điền nào, Điền đô người Bắc phải không?

 

Trong mỗi câu của đoạn đối thoại trên đều có nói lái, một hình thức sử dụng ngôn ngữ khá phổ biến, người quen dùng, nghe nói là hiểu ngay. Đơn giản như đang giỡn, nói lái chỉ là cách hoán đổi phụ âm đầu của hai từ (đói bụng => đúng bọi), ai cũng thực hành được, chẳng những trong đời thường mà còn đưa vào tác phẩm văn chương như là một biện pháp chơi chữ khá thú vị.

 

Nếu chưa quen nói xin mời bạn nghe lái trước đã.

 

NÓI LÁI TRONG ĐỜI THƯỜNG

 

Có thể nói ai cũng có lần nói lái ở trong đời, đôi lúc chỉ vô tình thôi. Nếu bạn buột miệng nói “đi giữa trời nắng cực quá” hoặc khi đèn điện không sáng mà bạn nói “điện sao lu quá chừng”, người nghe sẽ cho là bạn nói tục, có oan cũng đành chịu vì, dù bạn không cố ý nhưng nắng cực, điện lu nói lái nghe tục thật. Tương tự như thế, hãy cẩn thận đừng nói dồn lại, dồn lên, đồn láo, đồn lầm…

 

Ngoài những lúc vô tình như vậy, mọi người đều cố ý nói lái nhiều lắm. Từ nhỏ, ai cũng biết nghịch ngợm trêu chọc bạn với những cái tên. Thái thì Thái dúi, Thái giếng, Thọ thì Thọ lỗi, Điền thì Điền đô, Đức thì Đức cống, v.v… Còn những tên như Thu, Tốn, Bắc… sẽ có rất nhiều cách gán ghép để nói lái lại nghe không thanh nhã chút nào. Chưa kể những người có tên bắt đầu bằng chữ Đ, trẻ đến mấy cũng bị gọi bằng Cụ ! Học giả Vương Hồng Sển, lớn tuổi còn dạy học, sinh viên có khi gọi Thầy, có khi gọi Cụ để tỏ lòng kính trọng. Thầy dặn: Gọi tôi bằng họ, Cụ Vương, hay bằng tên, Cụ Sển, đều được, nhưng với thầy Vi Huyền Đắc thì nhớ chỉ được gọi là Cụ Vi.

 

Có khi các văn nghệ sĩ nói lái tên mình để đặt bút danh. Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, Lê Đức Vượng biến thành bút danh Vương Đức Lệ. Và, bạn có tin không, văn hào VOLTAIRE của Pháp (1694-1778 ), tên thật là François Marie AROUET, lấy tên thành phố quê hương là Airvault (thuộc vùng Deux Sèvres) nói lái là Vault-Air để có bút danh Voltaire đó!

 

Tuổi nhỏ nghịch ngợm trêu chọc nhau bằng những câu như “Mi là cái đồ ức căn bồng sơ chuối đỏ lọ cháy” hoặc “Ai đi đó?” và trả lời “O đi…” Có khi nói lái chỉ để đùa chơi, không có hậu ý gì (Ôm nhiều thì yếu, yêu nhiều thì ốm, chà đồ nhôm chôm đồ nhà) nhưng cũng có lúc nói lái có ý nghĩa phê phán chỉ trích (đấu tranh thì tránh đâu, thủ tục đầu tiên là tiền đâu, Nguyễn Y Vân, vẫn y nguyên, Vũ Như Cẩn, vẫn như cũ, Bùi Lan, bàn lui…)

 

Có thể nói lái bằng cách dùng cả chữ Hán rồi dịch ra. Mộc tồn là cây còn tức là con cầy, vậy quán mộc tồn là quán thịt chó! (Nhiều nơi cũng gọi là Cờ tây, dễ hiểu hơn). Còn nói đại phong để chỉ lọ tương thì phải đi lòng vòng một chút: đại phong là gió to, gió to thì chùa đổ, chùa đổ thì tượng lo, tượng lo là lọ tương! Cũng có khi bịa ra những câu, có vẻ như câu đối, dùng từ Hán Việt, nghe rất kêu: Giai nhân tái đắc, giai nhân tử, Anh hùng khai đống, anh hùng tiêu. Thật ra chỉ để cài vô mấy chữ "tái đắc", "khai đống", nói lái lại là hiểu liền!

 

Mấy ông bạn nhậu thường hay nói: Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu. Chẳng cần quan tâm đến ý nghĩa cả câu, chỉ tách riêng hai chữ cuối rồi giải thích: bôi thiểu => biểu thôi ( biểu = bảo): Uống rượu gặp bạn hiền có Trời mới biểu thôi! Nhắc đến mấy ông này phải nói đến tài nói lái, nhất là mấy ông trong hội “hoàng gia”, nhậu món mực mấy ông hỏi có mực ngò không, món lươn thì hỏi lươn sao không có rau dền, gọi dưa leo thì dặn nhớ thái dọc đừng thái ngang, ăn món lẩu thì đòi phải đun bằng cồn lỏng, tốt nhất là cồn nhập từ bên Lào! Lúc uống trà thì dặn đừng lấy trà Thái đức.

 

Có kiểu nói lái tưng tửng, có mà không, không mà có, ai hiểu thì cười, không hiểu cũng chẳng sao. Con gái thời nay thích nhất những chàng trai có chỗ đứng/ Đừng nói tui hay đánh vợ. Tui có đánh thiệt đâu, chẳng qua là đánh mẹo thôi! Tui không làm ăn chi nữa, chỉ sống nhờ lương thôi. Nếu không biết làm sương cho sáo thì cứ thử lấy tóc mà may...

 

Một ứng dụng độc đáo là dùng nói lái như một thứ mật mã, chỉ người nói người nghe hiểu với nhau. “Lôi thi lừng đì lói ní lữa nĩ, lụi tị lỏ nhỉ lô vi lìa kì”. Nói kiểu này, người ta dùng quy ước chọn một từ và thêm dấu thanh – sắc huyền hỏi ngã – đặt trước từ muốn nói và nói lái lại; trường hợp này từ được chọn là li và thêm dấu thành lí, lì, lỉ lĩ, lị. Vậy giải mã câu trên là: (Lôi thi) li thôi (lừng đì) lì đừng lí nói lĩ nữa lị tụi lỉ nhỏ li vô lì kìa = Thôi đừng nói nữa, tụi nhỏ vô kìa.

 

NÓI LÁI TRONG DÂN GIAN

 

Trong dân gian, hầu như ở miền nào cũng có nghe truyền tụng những sản phẩm nói lái, hoặc câu đố, câu đối, hò vè, thơ ca không rõ tác giả.

 

Câu đố

 

Những câu đố sử dụng nói lái không khó giải vì thường lời giải đã có sẵn:

 

– Khoan mũi, khoan lái, khoan khứ, khoan lai…

– Bò la, bò liệt đố ai biết gì? (Đáp: khoai lang).

– Con gì ở cạnh bờ sông, Cái mui thì nát cái cong thì còn. (Đáp: con còng – cong còn nói lái thành con còng).

– Cái gì bằng ngón chưn cái mà chai cứng? (Đáp: ngón chưn cái).

– Khi đi cưa ngọn, khi về cũng cưa ngọn? (Đáp: con ngựa).

– Miệng bà ký lớn, bà ký banh, Tay ông cai dài, ông cai khoanh? (Đáp: canh bí, canh khoai).

– Ông cố ngoài Huế ông cố ai? (Đáp: cái ô).

– Ông đánh cái chen, bà bảo đừng? (Đáp: cái chưn đèn – chen đừng).

 

Câu đối

 

Phần lớn câu đối có sử dụng nói lái đều không đạt những yêu cầu nghiêm ngặt (đối ý, đối nghĩa, đối thanh… ) của loại hình này, chỉ thể hiện sự dụng công nói lái thôi.

 

Nhiều câu ai cũng biết:

 

– Kia mấy cây mía

– Có vài cái vò

– Con cá đối nằm trên cối đá

– Mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo

 

Thời kỳ đời sống khó khăn, hình ảnh người thầy giáo phải tháo giày, giáo chức phải dứt cháo là cảm hứng cho nhiều câu đối :

 

– Kỹ sư đôi lúc làm cư sĩ

– Thầy giáo lắm phen cũng tháo giày

– Thầy giáo tháo giày đi dép lốp

– Nhà trường nhường trà uống nước trong

– Thầy giáo tháo giầy, tháo cả ủng, thủng cả áo, lấy giáo án dán áo;

– Nhà trường nhường trà, nhường cả hoa, nhòa cả hương, dùng lương hưu lưu hương

 

Một câu khác, cũng nói lái liên tiếp như vậy :

 

– Chê số đời, chơi số đề, cầu giải số, cố giải sầu, càng cố càng sầu

– Cầm cái đuốc, cuốc cái đầm, soi đầy ốc, xốc đầy oi, càng soi càng xốc

 

Rất ngắn gọn, mà không kém thú vị:

 

– Chả lo gì, chỉ lo già

– Nỏ muốn chi, chỉ muốn no

 

Thơ ca, hò vè

 

Trong loại hình thơ ca, hò vè cũng có thể tìm thấy nhiều câu nói lái:

 

– Mắm nêm ăn với quả cà, Vắng anh Tử Trực đâu mà biết ngon.

 

(Không kể chuyện Lục Vân Tiên đâu! Chơi chữ đó: ăn mắm nêm với cà mà thiếu quả ớt

thì không ngon. Ớt? Thì tử là con, trực là ngay, con ngay => cay ngon, là ớt chứ gì nữa!)

 

– Bụi riềng trồng ở bờ ao, Chú Mộc Tồn quấn quít ngày nào cũng xin.

 

(Mộc tồn: cây còn, con cầy, đã nói ở đoạn trên).

 

Bài hò đối đáp sau đây phát triển từ cách nói lái cá đối cối đá:

 

Nữ: Hát tình hát nghĩa đã qua/ Bây giờ hát lái mới biết là hơn thua/ Mẹ mua con cá đối lúc trưa/ Để trên cối đá sao bây giờ mất tiêu/ Chàng chỉ giùm con cá đối ở đâu/ Hay mèo tha giấu ngoài rào sau mất rồi!

 

Nam: Cá mắm chuyện của nữ nhi/ Bậu còn vô ý thì chuyện gì cho nên/ Con mèo đuôi cụt nhà bên/ Biết mẹ đi mua cá nó leo lên mút đuôi kèo/ Mẹ xách con cá đối nó nhìn theo/ Thấy để trên cối đá nó khều liền tay/ Lần sau nhớ lấy lần này/ Thấy mẹ mua cá đem ngay cất liền.

 

Bài khác, xin để ý từng cặp nói lái ngay trong mỗi câu:

 

Cá có đâu mà anh ngồi câu đó

Biết có không mà công khó anh ơi?

Anh ra đây em vẽ cho một nơi cá nhiều.

Anh ngồi đây ngày đôi ba lượt

Biết mất công mong cất con cá diếc lên

Để anh về làm giống nhân trên ruộng đồng.

 

Một câu hò ở Nam Bộ, giải rõ ra thì tục, nhưng mới nghe qua khó nhận thấy:

 

Thằn lằn đeo cột thằn lằn trốn

Cá nằm trong đăng, cá mắc kẹt đăng

Anh với em nhân ngãi đồng bằng

Dù xa duyên nợ nhưng cột lằn đừng xa.

 

Có những bài không rõ tác giả; trong bài sau đây, cách nói méo trời méo đất thật là tài tình:

 

Yêu em từ độ méo trời

Khi nào méo đất mới rời em ra.

 

Bài này đọc lên nghe rất tục:

 

Ban ngày lặt cỏ tối công phu

Đậu ủ lâu ngày hóa đậu lu

Ngày ta địa chủ, đêm tu đạo

Đạo chi lạ rứa: "Đạo ù ù".

 

Từ thập niên 50 của thế kỷ trước bài sau đây được nhắc đến nhiều, hẳn là phản ảnh thời cuộc:

 

Chú phỉnh tôi rồi chính phủ ơi

Chiến khu thu cất chú khiêng rồi

Thi đua thắng lợi thua đi mãi

Kháng chiến lâu ngày khiến chán thôi.

 

NÓI LÁI TRONG VĂN HỌC

 

Trong văn xuôi hình như ít thấy nói lái, hoặc tản mác nên khó phát hiện. Tác giả sở trường món này chắc phải là Vương Hồng Sển (1902-1996). Rải rác trong tác phẩm "Hơn nửa đời hư" ông chen vô mấy chữ "ủ tờ", "mống chuồng" , dễ thấy là tiếng lái của "ở tù", "muốn chồng". Khi nhắc lại kỷ niệm chuyến du lịch thăm Đài Loan và Nhật Bản, ông kể chuyện cùng người bạn Pháp trọ ở một khách sạn, mặc tạm áo kimono để sẵn trong tủ: "Đến cái áo kimono màu sặc sỡ, mỗi phòng trọ đều có treo sẵn cho khách mượn, Menken và tôi chưa quen, vừa xỏ tay vào, tấm thân bồ tượng áo che không khuất, trống trước trống sau, đứa "lù coi", đứa "lắc cọ", áo nhột nhột, cảnh thật buồn cười".  Cũng chính tác giả của "Saigon năm xưa", "Saigon Tạp pín lù" đã đặt tên cho xe thổ mộ là “xe u mê”, và giải thích: "Vì sàn xe bằng gỗ cứng, khách ngồi bệt trên sàn, ê ẩm bàn trôn, nhứt là khách phụ nữ đều phải “ê mu”, nói lái cho bớt tục".

 

Còn trong thơ ca thì nói lái không thiếu. Tác giả đầu tiên phải nhắc đến tất nhiên là HỒ XUÂN HƯƠNG.

 

... Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,

Trái gió cho nên phải lộn lèo. (Kiếp Tu Hành)

 

... Quán sứ sao mà cảnh vắng teo

Hỏi thăm Sư cụ đáo nơi neo.

Chày kình, tiểu để suông không đấm,

Tràng hạt, vải lần đếm lại đeo. (Chùa Quán Sứ)

 

... Đang cơn nắng cực chửa mưa hè,

Rủ chị em ra tát nước khe. ( Tát nước )

 

... Thú vui quên cả niềm lo cũ

Kìa cái diều ai nó lộn lèo. ( Quán Khách )

 

Nhà thơ trào phúng TÚ MỠ (Hồ Trọng Hiếu, 1900-1976) có bài "Lỡm cô Ngọc Hồ" với hai câu nói lái phong cách Hồ Xuân Hương:

 

HỒ tù ngán nỗi con rồng lộn

NGỌC vết thương tình kẻ cố đeo

(Nhắn khách Băng Tâm ai đó tá

Mỹ danh hai chữ, nghĩ buồn teo.)

 

THẢO AM NGUYỄN KHOA VY (1881-1968) nhà thơ miền Sông Hương Núi Ngự cũng rất nổi tiếng với những bài thơ nói lái:

 

Lũ quỷ nay lại về lũy cũ

Thầy tu mô phật cũng thù tây.

 

Trông khống vô phòng thấy trống không

Chứa chan sầu lệ chán chưa chồng

Dòng châu lai láng dầu chong đợi

Bóng nhạn lưng chừng, bạn nhóng trông

Nhòm ngó đã cùng nơi ngã đó

Mơ mồng bên cạnh gối mền bông

Đêm thâu mưa gió đâu thêm mãi,

Xông lướt đi tìm phải xước lông.

 

Còn BÙI GIÁNG , có người gọi là nhà thơ Bán Dùi vì là Ông ưa nói lái. Kiểu nói lái của Bùi Giáng thật khác người, không cần người đọc có hiểu hay không. Ông thường dùng những từ như: tồn lưu, lưu tồn, tồn liên, liên tồn, tồn lí tí ngọ, tồn lập tập trung, tồn lập tập họp…

 

Lọt cồn trận gió đi hoang

Tồn liên ở lại xin làn dồn ra

(Mưa nguồn)

 

Cá ở ngoài khe có ít nhiều

Cồn lau cỏ lách có hoang liêu

Em về có hỏi răng ri rứa

Nhắm mắt đưa chân có bận liều.  

(Bờ trần gian)

 

Bài "Trong bàn chân đi" đầy dẫy những chỗ nói lái nhưng thật khó mà hiểu được:

 

Có mấy ngón

Năm ngón

Mười ngón

Món người

Non ngắm

Nắm ngon

Hoặc là năm ngón nón ngăm

Màu đi trên nước cá tăm chuyên cần

Nón ngăm dặm bóng xoay vần

Đọng nơi góp tụ và chần chờ đưa.

 

Có nhiều nhà thơ lúc cao hứng cũng lái ngay một bài, tinh nghịch và bất ngờ thú vị. Đó là NGUYỄN THÁI DƯƠNG:

 

Mực ngò, mực ngó, mực ngằn

Mực, bao nhiêu mực chẳng bằng mực nghi

Chao ôi bất luận mực gì

Vẫn thua mực ngút li bì sớm hôm.

 

Và cả BÙI CHÍ VINH, người có thể "khạc ra thơ" (chữ dùng của chính tác giả trong hồi ký) mọi nơi mọi lúc mọi đề tài, có bài Đảo Ngữ Hành lái từ đầu đến cuối:

 

Hành đảo ngữ kể từ GIẢI PHÓNG

Thi ca làm PHỎNG DÁI niêm vần

Muốn in báo phải làm đầy tớ

Nhưng ta nào phải kẻ lòn trôn

 

Ta nào phải là ông Hàn Tín

Phò Lưu Bang phản bạn lừa thầy

KỸ SƯ vì thế thành CƯ SĨ

THẦY GIÁO từ đây chịu THÁO GIÀY

 

Họp ĐỒNG CHÍ thấy toàn ĐÌ, CHỐNG

XÔ VIẾT ngày nay khoái XIẾT VÔ

Hình treo LỘNG KIẾNG như LIỆNG CỐNG

Để thằng TO DỰ hét TỰ DO

 

Chú đeo BẢNG ĐỎ mà BỎ ĐẢNG

Mượn SAO VÀNG che đậy SANG GIÀU

CĂNG BỒNG nhờ nói CÔNG BẰNG nhỉ

LƯU MANH nào lại chẳng LANH MƯU?

 

Theo CHÍNH PHỦ ai ngờ CHÚ PHỈNH

Vào CHIẾN KHU thì bị CHÚ KHIÊNG

Mồm ĐÁNH MỸ mà tâm ĐĨ MÁNH

TIỀN ĐÂU? chú chặn họng ĐẦU TIÊN

 

GIÁO CHỨC đói meo đành DỨT CHÁO

Làm NHÀ THƠ vô bót NHỜ THA

THIÊN TÀI không đủ THAI TIỀN hả?

CẤT ĐUỐC về quê CUỐC ĐẤT à!

 

KHIẾN CHÁN ta làm thơ KHÁNG CHIẾN

Gào THI ĐUA chú bịp THUA ĐI

LÀM THƠ mà LỜ THAM mới nhục

THÌ CẤY cày mất đất THẤY KỲ

 

LÃNH TỤ sạch nhờ ôm TỦ LẠNH

BẨN NGƯỜI DO bác BỎ NGƯỜI DÂN

BÁC ĐI quá sớm thành BI ĐÁT

NGHỆ SĨ tụi con NGHĨ XỆ quần.

 

Nói lái qua vài câu, vài bài thơ đã là thú vị, vậy mà nhà thơ VÕ QUÊ xứ Huế dai sức, dài hơi, làm luôn một tập gần 50 bài. Khởi đầu là một bài cảm tác từ trận lụt kinh hoàng năm 1999 ở Huế:

 

Trời lụt ca nhi cũng trụt lời

Trời đong mưa lũ xuống trong đời

Vái lạy lụt tan lành váy lại

Đời cho du khách dạo đò chơi.

 

Bài thơ nhanh chóng được "xuất bản miệng" rộng rãi trong thân hữu, tạo cảm hứng cho tác giả tiếp tục sự nghiệp thái lơ của mình, gom góp lại thành tập NGƯỢC XUÔI THẾ SỰ, do nhà xuất bản Văn Học ấn hành năm 2011.

 

Đầu năm thi tứ nằm đâu?

Sắc màu nhân thế đượm sầu mắt ai?

Ngược dòng thế sự láng lai

Lang thang nhặt lái một vài câu chơi!

 

Có nhiều bài bỡn cợt vui vui kiểu như bài đùa các bợm rượu:

 

Một chai mai chột, coi chừng!

Nhị chai nhai chị tưng tưng ngà ngà

Ba chai là bai nghe cha!

Bốn chai cẩn thận kẻo mà bái chôn

Ngũ chai ngai chủ hùng hồn

Sáu chai sai cháu bếp cồn luộc tôm!

 

Hoặc là TỰ HỎI:

 

Viết câu chi đó?

Có viết chi đâu!

Trống rỗng tim, đầu

Tìm đâu chữ nghĩa...

 

Và TỰ TRÀO:

 

Mùa lễ hội thơ hoa lỗi hệ

Lục bát đành lạc bút từ khuya

Đợi lâu mới biết đâu có lợi

Bìa treo đây mai ruột đầy bia?

 

Nhiều nhất là những trăn trở của nhà thơ trước những vấn đề thời sự:

 

Dầu xăng tăng giá dạ giăng sầu

Đầu tiên trăn trở bạc tiền đâu

Giật gấu vá vai theo vật giá

Thâu đêm nhức nhối nghĩ thêm đau!

 

Hoặc:

 

Biến chất điếm đàng đi chiếm đất

Cánh đồng xoang bởi quán đồng xanh

Hối mại chức quyền gieo mối hại

Lanh mưu thoái hóa thật lưu manh!

 

Và:

 

Dân mình hiến đất xây trường

Quan tham lấn đất trầy xương thầy trò

Học đường lắm nỗi sầu lo

Quan tham thì vẫn trùm sò dài lâu.

 

Lần vô danh lợi hại dân lành

Tranh thùng tranh thủ mới trung thành!

Đầy tớ vét tiền bao tờ đấy

Giành nhau tham nhũng chúng giàu nhanh

 

Thơ lái Võ Quê, thông minh, dí dỏm, thâm trầm và sâu sắc, không chỉ là những lời cười cợt mua vui.

 

Tóm lại, nói lái là một hình thức sử dụng ngôn ngữ khá thú vị nhưng phải lưu ý một điều là, cũng như chuyện tiếu lâm, nói lái thường có yếu tố tục. Vấn đề là phải nói sao cho đúng nơi, đúng lúc, đúng liều lượng, nhẹ nhàng dí dỏm. Nói lái thể hiện tính khôi hài, óc châm biếm, đôi khi rất thông minh, sáng tạo bởi có nhiều cách nói lái. Nói lái nhiều lần liên tiếp theo kiểu Thầy giáo tháo giầy, tháo cả ủng, thủng cả áo, lấy giáo án dán áo là lái dồn. Nói lái mà gây phản cảm, làm khó chịu người nghe là lái dở, lái dỏm. Còn lái giỏi là nói kín đáo, bất ngờ, có khi không nhận ra được ngay. Chẳng hạn khi ăn thịt chồn, bạn chỉ cần nói con chồn có cái lạ là không bao giờ đi tới trước (để cho mọi người suy ra là chồn đi lùi!) Chẳng hạn khi đứng trước nhiều giống hoa lạ, có ai hỏi tên bạn cứ trả lời đây là hoa “khiết bông” chứ đừng vội thú nhận là bạn không biết, thế nào người ta cũng nói cái hoa lạ quá mà tên nghe cũng lạ. Cũng là hoa, nhưng nên nhớ đừng nói với bạn gái là “em rạng rỡ như hoa dã quỳ”. Người ta giận đó! Lái kiểu này là lái (giả) đò.

 

Trong một truyện ngắn, nhà văn Y BAN kể chuyện một bà vợ chạy chữa bệnh liệt dương cho chồng bằng đủ loại thực phẩm, thuốc men đều không hiệu quả, nên mới nghĩ tới một bài thuốc dân gian. “Bài thuốc này gồm 3 vị: Hà thủ ô, cỏ thiên, và trứng vịt lộn”. Người đọc cứ thắc mắc, hà thủ ô với trứng vịt lộn thì ai cũng biết, nhưng cỏ thiên là cỏ gì? Tác giả bật mí: Ba vị thuốc đó gọi tắt là HÀ THIÊN LỘN, có thể do tâm lý ông chồng không thấy hứng thú khi gần vợ, cho ông đi tìm… may ra hết bệnh! Nói lái kiểu đó chắc phải gọi là lái (bóng) gió!

 

Vậy thì, bạn cứ thử nói lái đi, nhiều kiểu lắm và kiểu nào cũng có luật của nó. Nếu bạn không ngại luật nói thế tức là bạn đã biết nghệ thuật nói lái rồi đó.

 

Đọc xong bài này, nếu bạn thấy nóng trong người vì những chỗ (có vẻ) không thanh tao lắm thì tôi xin tạ tội bằng cách mời bạn một ly nước "bất hiếu". Chẳng có gì bí mật khi tôi bật mí thế này: tôi mời một ly đá chanh!  Ủa, đánh cha mà không phải bất hiếu sao?

 

– Thân Trọng Sơn

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.