
Trong KINH TIỂU BỘ, Tập 1, Phần PHẬT TỰ THUYẾT, Chương Năm, PHẨM TRƯỞNG LÃO SONA, TIẾT SỐ V (Ud 51), kể lại chuyện Đức Phật Thích Ca ban một thời Pháp thoại với chủ đề so sánh tám điều vi diệu của Biển Lớn với tám điều vi diệu của Phật Pháp.
Nhân và duyên gì đã tạo ra buổi Pháp thoại này?
Thời gian là tuần trai giới từ ngày trăng tròn mỗi tháng; địa điểm là thành Savatthi, kinh đô của nước Kosala, dười thời vua Pasadena; phần lớn thời gian, Đức Phật thuyết pháp tại vườn Kỳ Viên (Jetavana) của trưởng giả Cấp Cô Độc, nhưng lần này tại nhà mẹ của nữ cư sĩ Migara.
Đây là buổi tụng giới hàng tháng của các Tỷ Kheo được chính Đức Phật hướng dẫn, gọi là ngày Uposatha, ôn lại 227 giới luật mà chúng Tỷ Kheo phải thực hành. Những giới luật này được gọi với tên chung là Patimokkha, Giới Bổn, có công năng giúp người tu hành giữ gìn thân, khẩu, ý luôn thanh tịnh. Phải thực hành chuyên cần 227 giới luật của Patimokkha, thì người tu sĩ mới giữ được lục căn thanh tịnh, không tìm cách sinh sống bằng nghề xấu, và bỏ được thói ích kỷ, keo kiệt đối với bạn đồng tu về tiền bạc, y phục, chỗ ở, thuốc men do bá tánh cúng dường.
Trong kỳ trai giới này, thời gian diễn ra vào lúc đêm gần tàn, và trời sắp bình minh; toàn thể Tỷ Kheo ngồi thiền định trên lầu, vây quanh Đức Phật.
Thị giả của Đức Phật là Tôn giả Ananda ba lần bạch Phật đêm đã gần tàn xin Đức Phật tuyên đọc Giới Bổn Patimokkha cho chúng Tỷ Kheo ôn tập. Nhưng Đức Phật yên lặng .
Sau lần thứ ba, Ngài mới nói : “ Đạo tràng không thanh tịnh, chưa thể nói Pháp”.
Tôn giả Đại Mục Kiền Liên là người có tha tâm thông cao nhất, vận dụng tâm của mình lướt một vòng đại chúng, thấy có “người ác giới,theo ác pháp,không thanh tịnh, sở hành đáng nghi ngờ, hánh động được che đậy, không phải Sa-môn tự xưng là Sa-môn, không theo Phạm-hạnh mà tự xưng Phạm-hạnh, nội tâm hủ hóa, đầy ứ dục vọng, một đống rác ô uế đang ngồi giữa chúng Tỷ Kheo”.
Tôn giả Mục Kiền Liên bèn đi đến chỗ người ấy, yêu cầu ông ta rời khỏi đạo tràng vì Đức Phật đã biết tâm ông ta ô nhiễm làm đạo tràng mất thanh tịnh. Sau ba lần yêu cầu, ông ta vẫn không rời đi, Tôn giả đành phải nắm tay ông ta dắt ra ngoài, gài then cửa lại, rồi trở vào bạch Phật đạo tràng đã trở lại thanh tịnh, xin Ngài mở đầu thuyết gảng.
Đức Phật khen: “Thật vi diệu thay, Moggallana! Thật hy hữu thay, Moggallana! Cho đến khi bị cầm tay, người ngu si ấy mới đi ra”.
Sau đó Ngài tuyên bố kể từ hôm nay, bản thân Ngài sẽ không đọc Giới Bổn, mà tự các Tỷ Kheo thực hành Uposatha. Đó là nhân duyên đưa đến buổi Pháp thoại hôm nay với chủ đề “ So sánh tám điều vi diệu của Biển Lớn với tám điều vi diệu của Phật Pháp”
1/ Điều Vi Diệu thứ nhất: Biển lớn “tuần tự xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không có thình lình như vục thẳm”.
Cũng như thế, trong Phật Pháp, “các học pháp là tuần tự, các quả dị thục là tuần tự, các con đường là tuần tự,không có sự thể nhập chánh trí thình lình”.
Quả dị thục là quả báo đã chín muồi, khác với nhân dã gieo tạo nghiệp. Có những quả báo nhãn tiền, có những quả báo phát tác sau một thời gian lâu; có khi không phát tác cho người tạo nhân mà cho con cái họ. Các con đường đạt đến chánh trí cũng cao dần, sâu dần, không như vách núi và vực thẳm.
Từ cấp sơ đẳng tu năm giới dần dần đến tu 227 giới, thử hỏi bao lâu hoàn tất? Từ tu năm bậc thiền sắc giới, qua bốn bậc thiền vô sắc giới, bao lâu? Từ bậc Thánh Tu Đà Hoàn còn phải tái sanh bảy lần, qua bậc Tư Đà Hàm phải thêm một lần tái sanh, bậc A Na Hàm mới hết tái sanh, nhưng bao lâu nữa mới đạt được tầng cao nhất là bậc A La Hán?
Như một con trẻ từ mẫu giáo đến học vị tiến sĩ, cần bao lâu thời gian và công sức, tiền của? Trong một trăm con trẻ, mấy em đi đến đích sau cùng? Trong thời hiện tại, trong cả trăm ngàn tu sĩ, có bao nhiêu vị đạt đến Quả Nhập Lưu Tu Đà Hoàn?
2/ Điều Vi Diệu thứ hai: “Biển Lớn đứng một chỗ, không có vượt qua bờ”.
Cũng như thế, “Các học pháp Ta sửa soạn cho các đệ tử; này các đệ tử của Ta, dẫu cho vì nhân sinh mạng cũng không vượt qua”. Thật vậy, Tứ Diệu Đế, Lý Thập Nhị Nhân Duyên..là những học pháp vĩnh cửu, bao la như biển lớn.
3/ Điều Vi Diệu thứ ba: “Biển Lớn không chứa chấp xác chết. Nếu có xác chết trong biển lớn, lập tức bị quăng lên bờ, hay vất vào đất liền”. Cũng như thế, “Người nào là ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh đáng nghi ngờ, có những hành vi che đậy, không phải Sa-môn nhưng tự nhận là Sa-môn, không sống Phạm hạnh nhưng tự nhận có Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ đầy tham dục, tánh tình bất định. Chúng Tăng không sống với người ấy, lập tức hội họp lại và đuổi người ấy sống xa chúng Tăng. Dầu cho người ấy ngồi giữa chúng Tăng, nhưng người ấy sống xa chúng Tăng, và chúng Tăng sống xa người ấy”.
Đức Phật ví người “có hành vi che đậy”, đeo mặt nạ tu sĩ, trà trộn vào hàng Tăng sĩ, sẽ bị coi như “xác chết trong biển lớn bị quăng vào bờ hay vất lên đất liền”. Bởi vì họ theo ác pháp, đi ngược lại năm giới căn bản của Phật Pháp, chưa nói đến 227 giới Patimokkha.
4/ Điều Vi Diệu thứ tư: “Phàm có các con sông lớn nào, ví như sông Hằng, sông Yamuna, sông Aciracati, sông Sarabhu, sông Mahli, các con sông ấy khi chảy xuông biển, liền bỏ tên họ trước, trở thành Biển Lớn”. Cũng như thế, dù xuất thân từ giai cấp nào, Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà-la, “sau khi từ bỏ gia đình, sống không gia đình, xuất gia trong Pháp và Luật được Như Lai tuyên bố này, chúng từ bỏ tên và họ của chúng từ trước, và chúng trở thành những Sa-môn Thích tử”.
Trong giáo pháp Như Lai, mọi người bình đẳng trên bình diện Con Người, không phân chia giai cấp đàn áp nhau trên bình diện xã hội; không có giai cấp nào là chuyên chính đối với những giai cấp khác.
5/ Điều Vi Diệu thứ năm: “Phàm có những dòng nước gì ở đời chảy vào Biển Lớn, phàm có nước mưa từ trời rơi xuống, nhưng không vì vậy mà Biển Lớn thấy có giảm tăng”. Cũng như thế, hành giả nhập Niết Bàn, với thân xác còn hay không còn, thì “Cõi Niết Bàn” cũng không vì thế mà tăng giảm”.
“Cõi Niết Bàn” chẳng phải là một không gian nào, mà là một cảnh giới tâm thức giải thoát khỏi mọi trói buộc thế gian, như một mạng lưới do nhân Tham Sân Si giăng ra.
6/ Điêu Vi Diệu thứ sáu: “Biển Lớn chỉ có một vị là vị mặn”. Cũng như thế, “Pháp và Luật của Phật chỉ có một vị là vị giải thoát”.
7/ Điều Vi Diệu thứ bảy: “Biển Lớn có mười loại châu báu như trân châu, ma-ni châu, lưu-ly, xà-cừ, ngọc bích, san-hô, bạc, vàng, ngọc đỏ, mã não”. Cũng như thế, Pháp Phật có những châu báu như : BỐN NIỆM XỨ, BỐN CHÁNH CẦN, BỐN NHƯ Ý TÚC, NĂM CĂN, NĂM LỰC, BẢY GIÁC CHI, TÁM CHÁNH ĐẠO. Đó là những châu báu tạo thành BA MƯƠI BẢY yếu tố đưa đến tâm thức giác ngộ để nhập vào dòng Thánh ( Sota & Apatti = Stream –Enterer, quả Nhập Lưu). Giai thoại về Tôn giả Xá-Lợi- Phất chỉ nghe một câu của Ngài Assaji mà chứng ngộ ngay Quả Nhập Lưu, chứng tỏ ba mươi bảy yếu tố giác ngộ trong tâm thức Ngài đã chín mùi từ bao kiếp để trổ quả.
8/ Điều Vi Diệu thứ tám: “Biển Lớn là trú xứ của những loài sinh vật lớn như các con Timi, Timigala, Timiramingala, các loài Asura, Naga, Gandhabba, những loài hải sinh vật có thân thật dài”. Cũng như thế, “Pháp và Luật của Như Lai là trú xứ của các loài sinh vật lớn như : Bậc Nhập Lưu Tu-Đà Hoàn, bậc Tư- Đà- Hàm, bậc A-Na-Hàm,, bậc A-La –Hán”. Đó là những Thánh Nhân đã giải thoát khỏi thân phận phàm phu, không còn trôi lăn đau khổ trong vòng luân hồi sinh tử.
Đức Phật kết thúc bài Pháp thoại bằng một bài kệ bí hiểm ,chứa đầy mật nghĩa:
Che kín, trời có mưa
Mở rộng, trời không mưa
Do vậy, hãy mở rộng
Cái gì bị che kín
Như vậy sẽ không mưa
Đọc bài kệ, mỗi độc giả sẽ có một cách lý giải riêng theo ý mình. Với kiến thức nông cạn, chúng tôi tạm thời hiểu như sau:
Bầu trời có mây che kín là mưa sẽ rơi; nếu có cơn gió mạnh thổi tan đám mây, thì sẽ không có mưa. Đó là hình ảnh tượng trưng cho tâm thức của con người, xét về hai bình diện cá nhân và xã hội. Nếu tâm thức cá nhân bị màn vô minh che kín, thì hành xử qua ý, khẩu, thân sẽ đem lại nhiều lầm lỗi, sẽ suy nghĩ, nói năng, hành động sai quấy, gây ra tội lỗi và có thể tội ác. Nếu tu tập theo Phật pháp, cá nhân có thể quét sạch màn vô minh, khiến cho tâm an, trí sáng, làm việc đời tốt đẹp hơn, giải quyết nhiều vấn đề đời sống một cách thành công. Trên bình diện xã hội, có một triết gia phân biệt một xã hội đóng kín với một xã hội mở rộng. Xã hội đóng kín bằng một bức màn sắt, hay một bức tường đá sẽ khiến những cá nhân của nó trở thành những con người có cái nhìn hẹp hòi, không học hỏi điều gì mới từ bên ngoài, sẽ trở nên ngu dốt, độc ác. Trái lại một xã hội mở rộng sẽ khiến những cá nhân có cái nhìn bao dung, thông thoáng, tiếp thu kiến thức mới dễ dàng, trở nên thông minh sáng tạo giúp cho toàn xã hội tiến bộ mau.
Xin nhìn Biển Lớn như một biểu tượng cho con đường tu tập.
– Đào Ngọc Phong
(California ngày 23 tháng 4 năm 2023)
SÁCH THAM KHẢO:
1/ KINH TIỂU BỘ--ĐẠI TẠNG KINH VIỆT NAM, ẤN BẢN 1999 TẠI SÀI GÒN
2/ A MANUAL OF ABHIDHAMMA, The Corporate Body of the Buddha Educational Foundation, Taiwan 1987.
3/ VI DIỆU PHÁP TOÁT YẾU, bản dịch Việt ngữ của dịch giả Phạm Kim Khánh, 1978, Sài Gòn. Thích Ca Thiền Viện tái bản tại thành phố Riverside, California.