Hôm nay,  

Chuyện sư tử con và bê con

5/7/202312:58:00(View: 4712)
Ngụ ngôn

nguyencau

Tại cánh đồng rộng mênh mông ở Phi Châu có một con sử tử con mới lọt lòng mẹ bảy ngày. Mẹ nó trong một chuyến đi săn bị bầy linh cẩu cắn chết và không bao giờ quay trở lại. Sư tử con đói kêu la thảm thiết, chập chững đi chẳng kể phương hướng để tìm sự sống. Nó may mắn lạc vào một đàn bò. Một con bò mẹ đang nằm dài dưới đất cho bê con bú. Sư tử con cũng chẳng biết đây là bò hay sư tử, do bản năng sinh tồn nó tìm tới và và chui vào tìm sữa nơi  bò mẹ. Bò mẹ hiền từ thấy sư tử còn bé, vô hại cho nên cũng cho bú mà chẳng phản ứng gì. Nửa năm sau, sư tử con lớn rất nhanh. Nó chơi đùa với con bê như anh em vậy. Nhưng do sự phát triển của cơ thể, tự nhiên nó thèm và cần một loại đồ ăn khác với sữa mẹ. Nó nói với con bê:
     – Này anh bê, vài ngày nữa tôi phải ra đi và tìm cách gia nhập bầy đàn để có đồ ăn. Chỉ một năm nữa thôi, tôi cũng phải tự đi săn. Khi đó tôi buộc lòng phải  ăn thịt anh và mẹ bò.
     Con bê ngạc nhiên hỏi:
     – Tại sao vậy?
     Sư tử con đáp:
     – Lý do rất đơn giản là tôi không thể ăn cỏ như anh mà phải ăn thịt sống, ăn thịt tất cả các loài động vật khác. Bây giờ tôi với anh còn là anh em, nhưng vài tháng nữa anh sẽ là đồ ăn của tôi.
     Nghe vậy con bê khóc rồi nói:
     – Thôi anh đi đi, đi xa và nhớ đừng ăn thịt tôi và mẹ bò nhé.
     Cũng ngay hôm đó, tại một vườn chơi trẻ em, hai cậu bé đang vui chơi với nhau. Nhưng một cậu là công dân của một siêu cường. Còn cậu kia là công dân của một nước nhỏ yếu kém. Một ngày kia, cậu bé siêu cường nói với cậu bé nhược tiểu:
     – Này bạn ơi, nếu tôi chỉ là một công dân bình thường thì bạn và tôi có thể chơi với nhau suốt đời như những người bạn tốt. Nhưng nếu tôi là lãnh đạo của đất nước tôi thì câu chuyện sẽ khác đi.
     Cậu bé nhược tiểu hỏi:
     – Khác thế nào?
     Cậu bé siêu cường đáp:
     – Lúc đó tôi có thể tấn công, xâm chiếm đất nước bạn, có thể lật đổ chính quyền của bạn, nước bạn có thể trở thành tay sai hay chư hầu của nước tôi.
     Cậu bé nhược tiểu ngạc nhiên hỏi:
     – Tại sao lại như vậy?
     Cậu bé siêu cường đáp:
     – Chẳng có gì ngạc nhiên cả. Vì đất nước tôi là siêu cường vô địch, không ai có thể chống lại cho nên chúng tôi muốn làm gì thì làm, giống như sư tử muốn ăn thịt loài bò lúc nào cũng được. Vả lại, nếu tôi không làm thế, giữ hòa hiếu và bình đẳng với các quốc gia khác thì đảng đối lập sẽ kết tội tôi là phản quốc, là yếu hèn, là không bảo vệ quyền lợi của đất nước, sẽ tìm cách truất phế tôi. Nói là để bảo vệ đất nước nhưng thực chất là muốn bảo vệ “cái ghế”. Tôi buộc lòng phải làm như vậy vì  quy luật sinh tồn. Tôi chỉ là phàm phu nắm giữ quyền lực chứ không phải thánh nhân. Tất cả các lãnh đạo phải làm như vậy. Nó giống như nghiệp lực từ vô thủy kéo dài tới bây giờ. Có siêu cường nào chịu nhường nhịn các nước nhỏ đâu? Có sư tử nào nhường nhịn con bò, con nai đâu?
     Nghe nói thế, cậu bé nhược tiểu buồn rầu nói:
     – Tôi xin bạn đừng làm lãnh đạo để chúng ta suốt đời là bạn với nhau.
 
Lời người kể chuyện:
 
Quy luật sống của loài thú và loài người giống hệt nhau, đó là luật “Cá lớn nuốt cả bé”. Bằng cớ là nhân loại đã trải qua những thời kỳ kinh hoàng của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa bá quyền và chủ nghĩa bành trướng. Loài người lại còn dã man và tàn bạo hơn loài thú. Sư tử ăn thịt con nai no, rồi nằm lăn ra nghỉ. Còn loài người săn bắt dân tộc yếu kém làm nô lệ, thiết lập chế độ thực dân để biến cả dân tộc họ thành nô lệ, thậm chí diệt chủng và tiêu hủy cả nền văn hóa của họ và giết hại biết bao nhà ái quốc của dân bản địa. Loài thú tuy tàn độc do bản năng nhưng không biết tuyên truyền gian trá và lừa mị. Loài người khi muốn xâm lăng nước nhỏ thường nhân danh những lý tưởng cao đẹp, kéo bè kéo đảng gọi là liên minh để hợp pháp hóa hành động của mình. Họ quảng bá rầm rộ về tính văn minh và nhân đạo khi cứu giúp một con mèo, nhưng lại tiến hành chiến tranh, giết chết cả trăm ngàn thường dân vô tội của một nước nhỏ. Bản chất của loài người vốn ác độc như Tuân Tử nói, “Nhân chi sơ tính bổn ác”. Cái ác vốn có từ vô thủy chứ chẳng phải thời nay mới ác.
     Nhưng này bạn ơi:
     Rất may, không phải tất cả con người đều như vậy. Các bậc thánh nhân thuở xưa, để hóa dân, để kiềm chế bớt thú tính của con người đã rao giảng học thuyết “Nhân chi sơ tính bổn thiện” và “Mọi chúng sinh đều có Phật tánh”. Qua lịch sử, loài người cũng đã sản sinh ra nhiều bậc cứu nhân độ thế, dám hy sinh thân mạng mình để chống lại bạo quyền, san sẻ bớt của cải để cứu giúp người nghèo khó. Thế nhưng những đức tính thiện lành này không phải bỗng nhiên mà có. Có thể do thiên bẩm nhưng phần lớn giống như quặng vàng phải đào xới, sàng lọc mới thành vàng ròng, như đá quý phải giũa phải mài mới thành ngọc. Muốn trở thành hiền nhân thì phải tu tâm dưỡng tánh, phải đọc sách thánh hiền và phải có cuộc sống đạo hạnh.
     Ngày nay, với sự bùng nổ của kỹ nghệ truyền thông, những luồng tư tưởng xấu, độc hại lan tràn không ít. Nhưng xen vào đó là những tư tưởng thiện lành đã có cơ hội nói lên tiếng nói của mình. Nó không còn bị áp chế, bưng bít, che giấu và chụp mũ như cách đây hơn một thế kỷ. Với hình ảnh của những đạo sư sống đời đạm bạc, rao giảng chân lý Từ Bi, Trí Tuệ và Bình Đẳng trên mạng lưới toàn cầu, thế hệ trẻ có cơ hội xem và học hỏi. Theo tôi nghĩ, thế hệ có tư tưởng gian ác nên từ từ chết đi và hình thành những thế hệ mới có tư tưởng bao dung, tiến bộ và nhân bản. Nhưng xin nhớ cho, gieo trồng những tư tưởng thiện lành không phải một sớm một chiều là có thể hái quả. Chúng ta phải kiên trì, nhẫn nại và không bao giờ nản chí khi gieo rắc những tư tưởng thiện lành.
     Vì thế giới này là thế giới của Tham Dục bùng cháy trong từng phút giây cho nên tôi nghĩ rằng nếu tư tưởng thiện lành lấn áp được tư tưởng hung ác thì vài trăm năm nữa thế giới mới có thể sống trong tình huynh đệ như Đức Phật dạy qua Lục Hòa, đó là Giới Hòa Đồng Trụ. Khi nhiều bậc thánh nhân ra đời thì thế giới sẽ sống trong an vui. Khi nhiều kẻ hung ác vẫn còn tồn tại thì thế giới Ta Bà này có thể vẫn tiếp tục với thói “Cá lớn nuốt cá bé” cho đến ngày tận thế. Đó là Nghiệp của chúng sinh.
     Bạn ơi:
     Hành tinh này hiện hữu có phải là tài sản riêng của các siêu cường, của kẻ mạnh muốn làm gì thì làm? Nó là mảnh đất chung của nhân loại mà không ai có quyền độc chiếm và áp đặt luật lệ của mình. Nếu có một thứ luật lệ chung thì nó phải được sự đồng thuận của tất cả các dân tộc và đạo đức phải là tôn chỉ mà loài người phải tuân thủ. Hiện nay tham vọng cuồng điên của nhân loại lớn tựa hư không mà tình thương thì chẳng chứa đầy tòa nhà Liên Hiệp Quốc.

 

– Đào Văn Bình 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.
Thế giới sẽ tuyệt vời hơn, nếu những cuộc chiến tranh bỗng nhiên biến mất, để rồi những bất đồng giữa người với người sẽ giảm nhiệt để chỉ còn là những cuộc phản kháng không làm hại ai. Lúc đó, bạn hãy hình dung, cõi này sẽ không cần tới súng đạn hay phi cơ, tàu chiến. Lúc đó, vũ khí phản kháng chỉ còn là thơ, tượng, hình vẽ... Người ta sẽ kể chuyện tiếu lâm, sẽ vẽ tranh hí họa... để chọc quê nhau, giễu cợt nhau. Lúc đó, những tờ giấy trắng và những bức tường sẽ là vũ khí tiềm năng, khi chúng ta viết chữ lên giấy và vẽ lên các bức tường. Đó là những bức tường biết nói. Các họa sĩ đã biến khu phố lịch sử Bo-Kaap của Cape Town thành một cuộc triển lãm nghệ thuật công cộng nhằm thể hiện tình đoàn kết với người Palestine ở Gaza. Dự án mang tên "Tranh tường cho Gaza" (Murals for Gaza) được khởi động vào tháng 12 năm 2023 bởi cư dân địa phương Obeidullah Gierdien.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.