Hôm nay,  

Tháng Năm, nhớ Mẹ

5/13/202321:19:00(View: 3646)
Tùy bút Mother's Day

mother 7

Tháng 5, tháng diễn ra lễ mừng Mother Day ở nhiều nước trên thế giới. Đó là ngày nhắc nhở để nhân loại biết tôn vinh người Mẹ và tình mẹ. Ai trong chúng ta cũng đều do mẹ sinh ra nhưng việc ý thức tình yêu của mẹ dành cho mình và sự đáp trả tình yêu ấy không giống nhau ở tất cả mọi người do nhiều lý do và hoàn cảnh khác nhau.
     Năm mẹ 45 tuổi, cha tôi qua đời. Mẹ tôi ở vậy nuôi con và chăm sóc mẹ chồng, bà nội tôi, khi ấy đã già. Anh chị tôi đã lớn, hai anh đầu làm việc ở công sở, chị Ba phụ mẹ công việc đồng áng, chỉ chị Năm và tôi còn đi học. Gia đình tôi thuộc hàng khá giả ở quê, có cả thợ cày, người giúp việc, vườn rộng, ruộng nhiều nên không lo cơm gạo. Mẹ tôi đảm trách việc nông tang, giỗ chạp trong gia đình và hiếu hỷ trong làng. Thời gian ấy, tôi mới vừa xong tiểu học, xuống trường quận chừng 7 cây số cách nhà học đệ nhất cấp, trường Trung học Quế Sơn, món quà mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi về thăm tặng cho quận qua lời hứa với cụ Phủ Lương Trọng Hối, đồng liêu với Người chốn quan trường cuối đời nhà Nguyễn.
     Đi học xa nhà, dù được về vào cuối tuần nhưng xa vòng tay ôm ấp của mẹ và chìu chuộng của anh chị, xa ngôi nhà yêu thương và bạn bè trong xóm, tôi buồn lắm, nhất là khi mọi người dành hết yêu thương cho chàng út phải sớm mồ côi cha. Nhưng rồi, tuổi nhỏ chóng quên, tôi phải  thích nghi để lo học hành, một việc rất khó khăn với đứa nhỏ nhà quê mới mười hai tuổi. Đã quá xa về thời gian tính từ ngày ấy, tôi nhớ mình đã đi về cuối tuần bằng cách đi bộ cùng với bạn bè. Thỉnh thoảng có nhờ vài anh lớn tuổi hơn học cùng trường chở bằng xe đạp. Kỷ niệm duy nhất về mẹ ngày ấy chỉ còn hai việc. Mẹ tôi về ngoại, cách nơi tôi trọ chỉ 3 cây số nhưng tôi không cách nào qua thăm bà và dù chỉ vài ngày nữa là lại được về thăm. Có lần, chuẩn bị theo bạn xuống trường vào trưa chúa nhật, nhân ở sát trong núi, có người đem phần thịt heo rừng ra chia cho nhà tôi (*), mẹ chế biến vội một ít cho ăn, bữa ăn rất ngon miệng và nhớ mãi đến giờ. Anh chị em tôi luôn phục tài nấu ăn của mẹ.
     Một trong những điều mà tôi cho là “điểm son” trong đời mẹ là cách cư xử với các con dâu. Thương yêu, bao dung nhưng trong khuôn phép. Có lẽ điều này bắt nguồn từ quá khứ cư xử bà nội đã dành cho mẹ nên mẹ đối xử với ba cô con dâu luôn thân mật, nhẹ nhàng. Nghe kể lại rằng thời ông nội và cha tôi làm nghề bốc thuốc, gia đình thờ Quan Công bên cạnh bàn thờ ông bà, tổ thuốc. Nghiêm cấm sử dụng thịt trâu, thịt chó trong nhà nhưng bà và mẹ tôi lại thích món thịt trâu nên mẹ con “toa rập” nhau, mua về và đem ra góc vườn nấu để cùng ăn. Chuyện hư thực thế nào không rõ, kể lại việc này về bề trên là bất kính nhưng như một minh họa cho những nhận định của mình. Mẹ tôi đối với con dâu bình đẳng, không kể tuổi tác hay giàu nghèo. Sai, bà chỉnh ngay, có lúc chỉnh trước mặt các anh. Do vậy, các nàng dâu luôn luôn yêu quý và kính trọng bà kể cả khi họ bước vào tuổi 70 - 80!
     Tôi là con út, lại mồ côi cha sớm, mẹ cưng chìu và yêu thương là chuyện bình thường nhưng các anh chị tôi đã thành gia nên thất mẹ tôi vẫn luôn quan tâm lo lắng cho họ, cả lúc khó khăn lẫn khi thuận lợi. Thời bao cấp, từ một công chức chính phủ VNCH, hai anh tôi phải lao vào đời kiếm sống nuôi bầy con 5 – 6 đứa. Anh Cả phải chạy xe đạp thồ, những ngày mưa, chiều, mẹ nhìn ra cửa “trông đứng trông ngồi”. Chỉ đến khi anh dắt xe vào nhà bà mới yên tâm! Sau này, khi các anh có cuộc sống ổn định, gia đình khá giả, mỗi lần mưa, mẹ vẫn thấy thương những người “đội mưa kiếm sống” khi nghĩ đến lúc khó khăn của con mình. Anh Hai tôi phụ người bạn đứng máy xay xát, ngày nào không có hàng để làm là bà đi ra, đi vào, lo lắng! Thương con là vậy nhưng nhiều lúc cũng quá đáng lại làm các anh bực mình khi cho rằng mẹ can thiệp sâu vào công việc của họ.
     Xuất thân và làm dâu đều trong gia đình khá giả, ít nhất là đối với quê tôi ngày ấy nhưng mẹ tôi không có cách cư xử của một số người giàu: tự dắc, huênh hoang, chảnh chọe. Bà đối xử rất tốt với thợ cày, thợ gặt và người giúp việc trong nhà nhất là miếng ăn miếng uống, kể cả sau này, với người giúp việc cho anh chị tôi. Có lẽ nhờ biết ơn bà nên khi quê tôi loạn lạc (chính quyền Quốc gia cai quản ban ngày, ban đêm thi thoảng Việt cộng về tuyên truyền, huy động lương thực trong dân) những người thợ cày luôn chạy về báo để bà, mẹ và chị Ba tôi chuẩn bị đi tránh.
     Năm bà 90 tuổi, lúc tôi đang làm việc ở Cam Ranh, bà đi thăm cháu nội đích tôn ở Sài Gòn. Khi cháu đón bà ở sân bay, gọi cho tôi báo tin rồi chuyển máy cho bà. Sau vài câu hỏi thăm sức khỏe bà qua chuyến bay, mẹ tôi “nhập đề trực khởi” ngay : “Mẹ nhờ con tạm ứng cho mẹ số tiền . . . và chuyển cho chú Tám. Mẹ sẽ trả khi gặp con gái con trong này. Nói với chú là mẹ gửi biếu chú uống trà”. (Chú Tám là em họ cha tôi nhưng hai gia đình rất gần vì ông cố tôi ít con cái).
     Hồi sống ở Bangkok (hơn 4 năm) tôi gom góp tất cả hình ảnh Mẹ mà mình có được, bằng vốn hiểu biết vi tính còm cõi của mình, theo cách vừa học vừa làm, tôi thực hiện một PPS về mẹ. Khi anh chị em và con cháu tổ chức mừng thượng thọ bà 100 tuổi – sau Tết năm 2013 (10 năm trước), đem PPS này chiếu lên màn hình TV, ai cũng ngạc nhiên và vui khi thấy lại cả quảng đời của bà, của Mẹ. Còn nhớ khi coi PPS, cô cháu tôi đã khóc, những giọt nước mắt thật lòng!
     Cật ruột của mẹ tôi có bốn người: dì Ả và dì Cạnh đã mãn phần, vợ chồng cậu Sáu đã định cư ở Mỹ, chỉ còn lại dì Năm đơn thân ở quê, thỉnh thoảng ra chơi với chị, ở lại dăm ba ngày hoặc lâu hơn. Do vậy, mừng thượng thọ Mẹ kết hợp với thượng thọ dì. Coi như “hai trong một” để dì vui và không cảm thấy bị bỏ rơi. Còn nhớ, ngày ấy mẹ tôi minh mẫn lắm. Bà cầm micro nói lời cám ơn con cháu đã tổ chức, cám ơn bà con và bạn bè của con đến dự, rõ ràng, rành mạch. Trong tiệc mừng, bà bưng ly đến từng bàn mời khách. (kể cả con cháu, hôm đó khoảng 60 người).
     Mẹ tôi sống khỏe thêm hai năm, sau đó thì bà yếu dần – nhưng vẫn còn minh mẫn. Bà bị “bệnh tuổi già”, vừa co rút các cơ vừa bị tai biến. Bài viết này thay cho một lời tri ân đến hai chị đã thay gia đình hai anh và vợ chồng tôi trực tiếp lo cho bà từng miếng ăn, giấc ngủ, vệ sinh thường nhật và có những việc các chị làm vì muốn tự mình chăm sóc hơn là nhờ người giúp việc! Tuy vậy, điều đáng khâm phục ở mẹ tôi là bà rất ít muốn làm phiền mọi người. Bà tự lo những việc trong khả năng của mình như ăn uống, đi vệ sinh, ngồi dậy, nằm xuống . . .
     Khi bà yếu, ở Bangkok tôi về vài ba lần mỗi năm. Mỗi lần về ở với bà từ 3 tuần đến cả tháng, mẹ và cả nhà rất vui vì các anh và các cháu thường đến chơi, sắm vài món nhậu, và mẹ, vui vẻ nhậu cùng! Về, tôi hạn chế ra ngoài kể cả thăm bè bạn mà chỉ quanh quẩn bên bà, nhờ đó, chứng kiến thường xuyên để thấy khâm phục cốt cách và trí tuệ bà. Ông sui anh Hai từ Bình Định vượt hơn 200 cây số xe đò ra thăm, mẹ tôi gượng ngồi dậy tiếp khách. Gần trưa, bà nhắc các chị lo cơm nước mời khách. Có lần đứa con anh Cả từ cửa hàng dắt vợ về ghé tạt vào thăm. Chàng này muốn “thử” bà, chỉ vào vợ mình và hỏi “Bà nội, bà biết cô nào không?”, mẹ không nói gì, chỉ cười cười. Cháu hỏi lại lần thứ 2, bà nghiêm nét mặt: “Thằng này thiệt dại, vợ mình mà không biết là ai, phải hỏi bà sao con?” Lần khác, con trai thứ tư của anh Hai đến thăm bà, chàng này uống đâu đó về nên phải tật nói lặp. “Bà nội ơi, hôm trước bà ăn bồ câu vợ con hầm đem đến bà thấy ngon miệng không? Nếu bà thích, vài hôm nữa vợ con hầm đem xuống bà ăn nhé”. Bà trả lời là thích. Cháu ngồi chơi, xoa bóp tay chân cho bà rồi nói thêm hai lần câu “vài hôm nữa vợ con hầm đem xuống bà ăn nhé”. Mẹ tôi nói ngay: “Bà cám ơn cháu nhưng bà chỉ ăn được một con, mà cháu cho đến ba con thì bà ăn sao nổi?i”.
Năm mẹ 105 tuổi, bà qua đời. Phút lâm chung của bà có đủ con, dâu từ lớn đến nhỏ, rất đông các cháu cũng có mặt. May mắn là cậu tôi, tuổi gần 90 cũng từ quê đi taxi cùng con gái ra với mẹ tôi kịp thời. Quan tài bà đem về quê ngoại tôi cách nhà chừng 60 cây số. Đám tang tổ chức trọng thể, đủ các nghi thức truyền thống tại nhà ở phố lẫn trước đông đủ bà con đến tận huyệt mộ ở quê để tiễn biệt trước giờ hạ huyệt.
     Rất nhiều người nói là bà có phước từ khi về già đến lúc qua đời. Đó là kết quả của một hiện kiếp sống đạo đức, hiền lương và thiện lành. Chỉ mong tất cả con cháu lấy điều này làm gương để biết điều chỉnh thái độ sống của mình. Riêng anh chị em tôi, học được rất nhiều điều từ mẹ. Chúng tôi vẫn luôn coi bà là cô giáo vĩ đại nhất của mình, vẫn không quên “Những điều mẹ dạy” dù chúng tôi đều quá ngưỡng 70!
     Mẹ ơi, khi sống, mẹ đã trải lòng với cuộc đời, với xã hội nên con luôn tin, ở nơi xa xăm đó, mẹ cũng luôn vui vẻ bình an khi đoàn tụ với những người thân đã mãn phần nếu tin là có “thế giới bên kia” Mẹ nhé.

 

– Nguyễn Hoàng Quý

(Sài Gòn, 14/4/2023)


(*) Thời đệ nhất Cộng Hòa, ở quê, gia đình tôi góp tiền giao cho bà con ở gần chân núi, cách nhà chừng 5-6km để nuôi dê và đào hố bắt heo rừng thường xuống chân núi uống nước. Mỗi lần bắt được heo, họ đem thịt ra nhà.

 

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.