Hôm nay,  

Những thi khúc về Mẹ

13/05/202321:57:00(Xem: 3787)

mother 2 


Mẹ là biểu tượng cho vẻ đẹp trường cửu. Một vẻ đẹp không thể nghĩ bàn. Chỉ có thể thẩm thấu trọn vẹn bằng cảm xúc của trái tim và hạt lệ, để biết rằng, với mẹ, ta đã được hưởng tình thương yêu, bao dung độ lượng đến ngần nào! Chỉ trong vòng tay mẹ, ta mới rung động được với nhịp giao hòa của bao la trời đất, ta mới cảm hết biên giới của ấm áp. Điều ấy, chúng ta sẽ thấy được nơi thơ của các nhà thơ Du Tử Lê, Nguyễn Lương Vỵ, Nguyễn Xuân Thiệp, Đỗ Hồng Ngọc, Pháp Hoan, Nguyễn Đức Cường, Hoàng Xuân Sơn, Vũ Hoàng Thư, Trangđai Glassey Trầnguyễn, Nguyễn thị Khánh Minh, Trịnh Y Thư. (NTKM).

 

***

 

DU TỬ LÊ (1942-2019)

 

Cõi Mẹ Về

(Trích đoạn)


em đâu biết, tôi có những giấc mơ
tỉnh ra còn ngỡ
như có chuyến xe lửa vừa mới khởi hành
về Hà Đông
nơi mẹ tôi được sinh ra, lớn lên,
rồi theo chồng đi miết.
quê ngoại với tôi tới giờ vẫn còn là niềm bí mật
như những sợi tơ giăng khắp bầu trời
tôi từng vói, mà, chưa lần nắm được.

em đâu biết tôi có những giấc mơ
thấy rõ mẹ về
đắp lại tôi, tấm chăn
vuốt lại tôi, mái tóc...
đã bao năm mất hút sau lưng,
mà, mẹ tôi vẫn không thể tin rằng mái tóc xanh của con bà đã bạc
những đường kẻ dọc, ngang vầng trán tối
đôi mắt nay đã mờ
(đôi mắt trong veo nhìn theo mẹ tôi những ngày họp chợ)
đôi mắt giờ sụp lở nắng, mưa.

mẹ tôi hỏi sao tóc con lại trắng?
những sợi gân nào lấp ló dưới da nhăn?
tôi hỏi bà, lúc rày người có khỏe?
mẹ tôi cười
quết trầu đỏ,
đôi làn môi cắn chỉ
bà vẫn buồn như thuở bố đi luôn…

 

– Du Tử Lê

(Trích từ tập thơ  Chỗ Nhân Gian Không Thể Hiểu,

Văn Học Nhân Chứng xuất bản, 1989)

 

***

 

NGUYỄN LƯƠNG VỴ (1952-2021)

 

vâng thưa mẹ con đã về bên mẹ
ngồi bên hiên nhà cũ thấm ân tình
trời xuống thấp đất lên cao nắng xế
chiều u trầm chiều êm như trang kinh

 

mẹ rất mỏng như không gian rất mỏng
con rất ngây như thời gian rất ngây
và đôi tay rất ấm trong đôi tay
và đôi mắt rất nồng trong đôi mắt

 

con nhìn mãi chiều thu xa xa lắc
nhìn rất lâu lâu lắm giữa chiều phai
chiều huyễn ảo mẹ đẹp như trăng cài
trên đỉnh núi trên đỉnh trời chói rạng

 

con nhìn mãi chiều thu xa xanh lắm
tiếng hát xanh xanh đất ấm trời êm
như lá nõn như cành non mướt đêm
mẹ ấp ngực ru con theo dòng sữa

 

vâng thưa mẹ con đã ngồi bên cửa
bên niềm vui bên nỗi nhớ đong đầy
mây trắng xóa mắt nhòa theo bóng mây
tim bỗng nhói chiều bỗng gầy heo hút

 

mẹ rất đẹp như đất trời bất tuyệt
như hồn quê như cánh bướm dâng mùa
bông cúc trắng bông cúc vàng đong đưa
nụ cười hiền mẹ vẫn ngồi thinh lặng

 

con nhìn mãi những chiều xa bay trắng
âm bay nghiêng hơi ấm mẹ trong đời
đời nghiêng ngửa đời ly tan lâu rồi
huyết âm mẹ trong con riu ríu lửa

 

con nhìn mãi giọt lệ khô chan chứa
biển rèm vang đồng vọng núi mênh mang
ôi thời gian thời gian ôi thời gian
con ôm mẹ giữa chiều ngân giọng sáo

 

vâng thưa mẹ con lần theo nếp áo
áo sờn vai hai bóng một vuông chiều
chiều rất thẳm chiều rất trầm yêu dấu
như chưa từng… thưa mẹ biết bao nhiêu.

 

– Nguyễn Lương Vỵ
(Trích từ trường ca Âm Tuyết Đỏ Thời Gian,

Văn Học Press ấn hành năm 2019)

 

***

 

NGUYỄN XUÂN THIỆP

 

Hỏi thầm giọt mưa. và nói giùm tôi

(Trích đoạn)

 

Tôi sinh ra dưới cội nghèo.

ngôi nhà ẩn trong xóm cỏ.

mẹ tôi răng đen. mắt hạt nhãn.

thời trẻ tiếng ca xanh dòng sông

mẹ lấy cha. rồi yên phận

nuôi heo. nuôi gà. nuôi con

Ơi em bé. hái búp sen mùa hạ

sen thì hồng. mà tay nhỏ xanh xao

em hái sen. chiều nay ra chợ bán

hương hạ nồng. cùng sợi khói nhà sau

mẹ già tưới cây chanh bên bờ giậu

để một mai đời ngát lộng hương chanh

mẹ còng lưng. mà trời cao vời vợi

dẫu một ngày. giọt nắng rụng xa cành

mai mốt. mẹ qua vùng thảo nguyên

mẹ. ánh trăng vàng trong truyện cổ

lặng soi bên mặt nước hồ gương

đi lang thang qua vùng bia mộ

khi cúi nhìn một cụm hoa lan

thương ôi. mắt nhung xưa. còn mở

 

– Nguyễn Xuân Thiệp

 

***

 

ĐỖ HỒNG NGỌC

 

Bông hồng cho Mẹ

 

Con cài bông hoa trắng
Dành cho mẹ đóa hồng
Mẹ nhớ gài lên ngực
Ngoại chờ bên kia sông

– Đỗ Hồng Ngọc

(Bài thơ này nhạc sĩ Võ Tá Hân đã phổ nhạc, ca sĩ Thu Vàng hát).

 

***

 

PHÁP HOAN

 

Mẹ tôi kể

 

Mẹ tôi kể

khi cỏ cây thôi xao động trong vườn

khi con chim ngủ yên trong tổ ấm.

Mẹ kể về những trái bom

giội lên những mái nhà

như táo mùa thu chín rụng.

Mẹ kể về những người lính

nằm chết trên cánh đồng

mạ non mọc ra từ cổ họng.

Mẹ kể về những dòng sông

về đất nước thời tuổi thơ của mẹ

nơi những ký ức vẫn âm thầm ngủ

như trái bom ngủ quên trong vườn

mỗi đêm nằm trên giường

tôi luôn nghe thấy tiếng đập của nó

sâu trong lòng đất đá

bốn mươi bảy năm qua

trong khu vườn những giấc mơ của mẹ.

 

– Pháp Hoan

(Nguồn: vanviet.info)

 

***

 

NGUYỄN ĐỨC CƯỜNG

 

Mẹ là ngôi chùa nhỏ

 

Con ngồi đây lặng lẽ,

Thương nhớ hoài mùa Xuân.

Con ngồi đây quạnh quẽ,

Riêng Mẹ đã bao lần.

 

Mẹ là ngôi Chùa nhỏ,

Đón con về nương thân.

Mẹ là đôi mắt tỏ,

Tha cho con lỗi lầm.

 

Mẹ là Xuân bay qua,

Nuôi đời con khôn lớn.

Mẹ là hương sen ngát,

Về trong mộng hiền lành.

 

Như bầu trời lồng lộng,

Là mặt đất bao la,

Là mưa rào tuôn xuống,

Cho đường con thắm hoa.

 

Mẹ là nắng thênh thang,

Bình minh xưa chói rạng.

Là mây chiều lãng mạn,

Những ngày Thơ huy hoàng.

 

Mẹ là đêm thức giấc,

Đêm xanh biếc ngàn sao.

Là vô cùng đôi mắt,

Có sương mù trên cao.

 

Mẹ đi suốt mùa Hè,

Qua hối hả mùa Thu,

Và mùa Đông tất tả,

Riêng cho con mùa Xuân.

 

– Nguyễn Đức Cường

(Trích từ tập thơ Chân Dung)

 

***

 

TRANGĐÀI GLASSEY TRẦNGUYỄN

 

Mừng tuổi con

 

khi yêu một người/ là ta được chiêm ngắm dung nhan của Thượng Đế/ mẹ cũng vậy/ trong phút đầu gặp con/ con chào đời/ trời đất thở ra tơ... (Mùa Yêu Con)

 

 

mừng Con chưa đầy tuổi

phúc, lộc, thọ, khang, ninh

má hồng xinh hơn mai

môi tươi hơn đào thắm

 

Con về ươm Xuân lạ

én xếp nhạc cành xa

tình bao kiếp giao hòa

mùa đông thôi ở giá

 

mùa Xuân còn ngáy ngủ

nằm lún vào má Con

cái đồng tiền thật tròn

mỗi lần con nhóp nhép

 

lún luôn vào tim Mẹ

tròn giếng sữa cho con

sữa chảy từ trái tim

tỏa ra hai bầu ngực

 

sân trời mai vàng rực

Mẹ kín một lộc non

mùa Xuân mới cho Con

Mẹ chảy vào trời đất

 

– TrangĐài Glassey Trầnguyễn

 

***

 

HOÀNG XUÂN SƠN

 

Tháng 7 nhớ Mẹ

                                               

tháng 7 tôi ngồi trong kệ

nghe ra trời đất tụng kinh

lung linh đại thừa bóng mẹ

nhìn vô. chỉ thấy một mình

 

chỉ thấy sương chiều bạc tóc

buộc một con sông mấy đò

trôi đi ngả nào không biết

chỉ biết mình ngồi co ro

 

chợt nhớ khi còn quyến luyến

thương làm sao khúc túy ân

say say một hồn vô ngã

chìm trong xứ mẹ ân cần

 

mà tôi vẫn còn lóng ngóng

lân tuất áo mẹ phương nào

giọt nước mắt chìm trong ngấn

chìm khuất                   

                  bóng mẹ

phương                        

                                  nào…

 

– Hoàng Xuân Sơn

 

***

 

NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH

 

Mẹ

 

Đầy tay mẹ dậy thơ thơm ngát

Đời hồng trong những áng văn chương

Mẹ cười, nhân ái bừng xuân sắc

Bao nỗi đau kia cũng nhẹ thường

 

– Nguyễn thị Khánh Minh

 

***

 

VŨ HOÀNG THƯ

 

Ngày Lễ Mẹ

 

Rách da bật máu thân mình

Mẹ đau quằn quại cho hình con ra

Vá trời thân một Nữ Oa

Oan khiên Mẹ chịu, hải hà Mẹ kham

 

Thăm Mẹ

 

mẹ nằm ngó biển xa xăm

trầm hương xin đốt lệ đằm tình thâm

mẹ ơi lỗi hẹn bao lần

mộ phần ngả bạc theo màu tóc phai

 

– Vũ Hoàng Thư

 

***

 

TRỊNH Y THƯ

 

Về Mẹ

 

Mẹ dòng nước mắt chia hai

Mẹ trong huyền sử mẹ ngoài trùng dương

Mẹ từ khung gác miếu đường

Mẹ qua biển lớn thịt xương nát lìa

Mẹ tân khổ

Mẹ đầm đìa

Mẹ chào tay vẫy những chia ly đời

Mẹ giam tủi nhục trong người

Mẹ ôm hơi thở thốt lời từ bi

Mẹ nhìn theo lũ con đi

Mẹ soi ký ức những khi khóc thầm.

 

– Trịnh Y Thư

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.