Hôm nay,  

Cuộc chiến chưa tàn

25/05/202313:03:00(Xem: 3687)
Truyện

alley-in-saigon

An lớn lên bên cạnh mẹ từ tấm bé, đến khi có trí khôn hiểu biết em cũng chỉ thấy có mẹ. Em không thắc mắc dù trên khai sinh của em tên cha là vô danh. Một đôi lần hiếm hoi lúc mẹ con gần khít bên nhau, rảnh rang như đi hè, ngồi trên bãi biển, trời cao gió mát, biển mênh mông, An vô tình hỏi mẹ vô danh là gì? Mẹ trả lời là không có tên, rồi mẹ cũng giải thích thêm là, ba đi buôn bán xa, tận ngoài Bắc hay đâu đó, bên tàu bên tây, đi lâu quá là lâu rồi, cũng quên liên lạc về nhà nên phải khai như vậy, đặng con có giấy khai sinh đi học.
    Thời gian qua An học xong tiểu học, lên trung học cũng không thấy ba em về, em đã quen và không hề nhắc tới, cũng không nhớ tới cái ông vô danh đó nữa. Ngoài mẹ ra, An còn có bà ngoại và cậu mợ Ba là em má và hai em trai, con của cậu mợ. Gia đình gồm bẩy người, cũng khá đông vui.
    Căn nhà mẹ con An ở sát một bên nhà cậu mợ và ngoại, đi qua đi lại như chung một gia đình. Hai em trai, Tuấn và Tú học chung trường tiểu học với An suốt sáu năm. Lên trung học thì phải học riêng, hai em vào trường nam, còn An thi đậu vào trường nữ Gia Long. Tuy nhiên cuối tuần và ngày hè, má vẫn mướn một gia sư về dậy kèm thêm cho An và Tuấn, Tú, những môn học chính như toán, lý, hóa. Riêng Anh và Pháp văn, má An tự đích thân dậy kèm con và cháu. Bà có vốn kiến thức và ngoại ngữ rất khá An cũng chẳng biết bà học hành tới đâu, nhưng từ lúc nào đã thấy bà bươn chải đi làm viêc ở cái công sở, tư sở mang tiền về nuôi gia đình một cách vững vàng sung túc. Bà là mẫu người hoạt bát, năng động ngoài xã hội hơn là loanh quanh trong nhà. Vào những năm 1965-1970, khi thấy đồng lương kém cỏi so với giá cả sinh hoạt đời sống xã hội, bà đi học để bổ túc thêm ngoại ngữ một thời gian ở hội Việt Mỹ, rồi xin việc làm trong các cơ sở ngoại quốc. Bà thành công trong việc kiếm tiền nhất là thời gian xin được vô làm cho tòa đại sứ Hoa Kỳ ở đại lộ Thống Nhất, bà khá lanh lẹ, hỏi làm gì trong đó? Bà nói bà làm thoại chương viên điện toán các hồ sơ. Càng kiếm ra tiền, mẹ An càng bận rộn với công việc làm. Bà cũng ít khi giao tiếp bạn bè, việc nhà, kể cả áo quần, đồ gia dụng, đồ trang sức riêng, những tiện nghi vật chất thời thượng bà cũng ít quan tâm đến, gần như nhờ vả cậu mợ Ba mua sắm giùm. Kể cả đồ ăn uống đã có ngoại lo.
    Những người bên cạnh lo cho má An và An rất chu đáo, nên đi ra ngoài, lúc nào mẹ cũng tươm tất, đoan trang và lịch sự, bà khá xinh xắn. Cái gì mẹ cũng đầy đủ, tính tình mẹ khá quyết đoán và hơi lạnh lùng. Bà rất một mình, buổi sáng ra đi một mình, buổi chiều tối cũng về lại một mình. Bà không có một người bạn thân, nữ hay nam, bà lủi thủi kể từ khi đi làm sở ngoại kiều. Bà cũng không có một người bạn Mỹ nào.
    Lúc nhỏ An không để ý, nhưng khi dần dà khôn lớn lên, An thương mẹ, cho là mẹ rất chung tình với ba, nên không có lấy một ý trung nhân trong suốt một quãng thời gian dài, nhưng không thấy bà buồn, thản hoặc, nhìn mưa rơi bà thở dài kín đáo rất nhè nhẹ. Vậy thôi, rồi lại lo vào công việc lo kiếm tiền. Chẳng vậy mà má An mua được ba bốn căn nhà giáp liền với khu nhà của ngoại vẫn ở từ đời nào.
    An không có ba ở bên, nhưng ăn học không hề thiếu thốn, phải nói là đầy đủ đến có phần vương giả, thầy, sách, vở, áo quần phủ phê. Xe nhà trường đến tận cửa đưa rước hàng ngày. Gia đình An sống cứ yên bình như thế hàng bao năm ở đường Trương Minh Giảng, nhìn lên phía trước là cầu, xế bên là đường Trương Tấn Bửu. Nhưng rồi những năm 1965-1970 Saigon rộn ràng chao đảo nhiều hơn những tin chiến sự, cộng quân liên kết với mặt trận phía nam áp lực ngày càng nặng. Việt Cộng pháo kích bừa bãi vào các trường học ở các tỉnh và pháo kích luôn cả vô thành phố Saigon. Nhà An phải làm hầm. Ngay tại thủ đô, các thế lực tôn giáo, giới sinh viên học sinh, các đảng phái chống chính phủ, rồi những tư tưởng phản chiến bị Việt Cộng trà trộn cũng lan tràn khó kiểm soát, Saigon những năm cuối của tự do đầy hỗn độn đầy chao đảo, vừa bị tấn công vừa bị lợi dụng. Tội nghiệp Saigon.
    Gần đến tháng 3, tháng 4 năm 1975, nói chung là sau hòa đàm Paris, nhiều gia đình có bề thế có tiền của đã rục rịch di cư ra ngoại quốc. An thấy mẹ, ngoại và cậu mợ ba bàn soạn với nhau nên đi đâu, đi thế nào, sang Singapore hay sang Mỹ. Mẹ cô có chút thế lực ở sở và có tiền, nên từ đầu năm 1975 cả đại gia đình đã có đủ giấy tờ xuất cảnh. Dự trù là họ sẽ lên máy bay vào cuối tháng hai. Nhưng phút chót ấy, mẹ An tiễn gia đình đi trước. Mẹ tình nguyện ở lại đi chuyến cuối, sẽ đi cùng sở làm. Mẹ có hỏi ý An muốn đi với cả nhà hay ưng ở lại chờ mẹ. Dĩ nhiên là cô quyết định ở lại, để được sẽ đi với mẹ. Vì cái quyết định không ngờ này mà An gặp lại ba.
    Tại sao mẹ không giải thích trước thì có trời mà hiểu. Chỉ biết ngày 10-5-1975 bà mừng rỡ đón chồng gõ cửa rồi vào nhà. Em vẫn chờ anh. An cảm động được biết ông là ba cô, nhìn vội trong tấm kiếng lớn trong phòng khách, An thấy mình giống cha khá đậm nét, khuôn mặt trái xoan hơi vuông, cặp lông mày khá dài.
    Hai tuần lễ đầu tiên, nhà ba mẹ thật vui. Mẹ không đi làm và có thì giờ ở nhà lo toan, thăm hỏi ba, cả hai người đã kể cho nhau nghe nhiều điều và đã nói với nhau khá nhiều bà dặn ông sáng sáng có lên cơ quan, thì về ăn cơm chiều. Họ cũng có lúc thì thầm nhắc lại kỷ niệm cũ xưa rồi dắt nhau đi mua sắm cho ông. Bà mua cho ông khá nhiều, đồng hồ tự động, bút máy hiệu Parker, kiếng lão, kiếng râm là những thứ cần thiết. Bà cũng may cho ông một mớ áo quần mới, mà ông rụt rè không dám mặc ngay. Ông nói sợ các đồng chí ở cơ quan cười ông là bị hủ hóa, mất lập trường. Chữ hủ hóa, và chữ mất lập trường, ông lặp đi lặp lại hai ba lần, sau cùng bà như nổi cáu, bà bảo: “Thôi sợ hủ hóa sợ mất lập trường… thì cứ lấy mấy cái áo quần cũ me cũ mét ấy ra mà bận!” Đúng như An đã nhận xét về mẹ, mẹ cô cho là tư tưởng, ý nghĩ trong đầu mới là quan trọng, chứ cái vỏ ngoài bề mặt thì không kể, nhưng ông chồng mới về, lại cho là cái bề ngoài nó thể hiện cái chiều sâu méo xẹo “ngụy quân ngụy quyền” bên trong. Hai người cố né, mỗi người né về phía cực đoan của mình, vậy mà cũng có lúc đụng chạm. Má hỏi ba:
    “Méo xẹo ngụy quân ngụy quyền là cái gì ông nói rõ tôi coi”.
    “Thì đi theo Mỹ đó!”
    “Ý cha, vậy phe ông Bắc kỳ đi theo Tầu, theo Nga bộ hay ho hơn tụi tôi sao?”
    Ba An làm hòa, nói ở ngoài kia, họ dùng xe đạp đi khắp nơi, tiện lợi, không phải mua xăng dầu và thành phố không ô nhiễm, không ồn ào náo động. Mẹ bảo là, toàn là thành phố đều đi xe đạp, lạ nhỉ, mẹ không thể tưởng tượng ra một thành phố ai ai cũng đạp xe. Rồi bà nói thêm, theo ý bà phải có đủ loại xe, xe máy, xe hơi, xe Honda, mới đẹp. Đi xe đạp, đạp lâu quá, mất thì giờ, mẹ không chịu được.
    Rồi ở bên nhau lâu ngày hơn, nửa tháng, một tháng… Người bên này, kẻ bên kia, cả hai cùng có ấn tượng mạnh trong đầu, nói nhiều về quan điểm riêng tư, có lúc đụng độ đến bất hòa. Mẹ An cho là bà bị đàn áp chứ bà có thua ai bao giờ, ba An cho là bà có nhiều lấn cấn trong tư tưởng mà ông phải giải thích! Nhưng bà không theo. Có lúc họ cũng tương đắc, vì chiến tranh lâu quá, giờ cần tái lập lại hòa bình, nhưng hòa bình hiểu như đem tất cả dâng biếu cho nhà nước là má của An không đồng ý, bà lặp lại nhiều lần và rất nhiều lúc với ông chồng là, nhà cửa, cơ ngơi này, bà cong lưng làm việc gần 20 năm mới tạo ra, chứ có ai cho không bà một viên gạch nào đâu? Bắt đầu những mâu thuẫn bực mình.
    Ấy tại vì ở bên nhau lâu, lâu ngày, thành sinh ra bất hòa, đấu khẩu, cứ kể mà họ ít gặp nhau lại hay hơn. An nghĩ là nếu đừng bao giờ gặp lại khỏi mất công cãi lộn. Có lần họ đứng bên nhau uống trà trong hiên nhà, tưởng là tương đắc lắm, nhưng tự nhiên ông bà lại đưa ra nhận xét riêng tư:
    “Nhà này rộng rãi quá, có hai mẹ con, cộng thêm bà ngoại và cậu mợ Ba ở, thì phí quá, như ngoài đó, cả mười gia đình ở được đấy!”
    “Nhà ai nấy ở chớ! Ở chung vậy sao tiện? Vả lại em thích mai này, nếu con gái có gia đình khi cần về đây ở luôn… Mẹ con quầy quần”.
    “Ờ, tư sản là vậy, anh nói vậy thôi…”
    Áo quần bà sắm cho ông khá bộn, ông không ưng mặc ngay, mà ông có ý mang theo ít bộ, bà cũng đồng ý, ba cái lẻ tẻ, bà không quan tâm, vì có đáng gì đâu. Nhưng rồi một lần khác quan trọng hơn là lúc hai người đang đứng trong khuôn viên cửa trước, trồng đầy bông hồng đủ màu, đang đua nở, gió đưa hương thơm ngào ngạt, bà cứ nghĩ là ông đang thưởng ngoạn, nhưng mà bất ngờ, ông đưa ra một nhận xét rất cộng sản:
    “Cứ ba cái luống đất trồng cây trồng bông hoa này, mà để trồng bắp hay khoai, thì ăn mệt không hết. Bông bắp lên cũng đẹp mà lại có ăn, kể có lúc khỏi đi mua lương thực!”
    “Bộ ông không thấy bông hoa tươi đẹp sao? Lúc nào cũng nghĩ tới chuyện ăn. Chán quá!”
    “Mà rồi em coi, bây giờ em không còn đi làm sở này sở nọ, ở nhà phải trồng tỉa thôi, củ để ăn, rau nhợ ta nuôi heo”.
    “Ô, heo, ông thích nuôi thì ông nuôi. Khoai lang, bắp, khoai mì, ông muốn trồng ông trồng. Ba thứ đó, ghê quá, dơ hầy, tôi không có kham nổi. Ông điên hả?”
    “Đồng chí Liên, đồng chí ấy làm được tất đấy! Hay ta cho đồng chí Liên một góc nhà và một góc vườn, đồng chí ấy sẽ sản xuất”.
    “Đồng chí Liên là ai mà ông đòi cho một góc nhà này?” Má trợn tròn hai mắt.
    “À, đồng chí ấy công tác ở chung cơ quan kiểm tra văn hóa và sách giáo khoa với tôi. Họ mới vô, chưa xin được chỗ ở riêng”.
    “Không được, ông điên nặng lắm rồi, nhà tôi, tôi ở một mình, không thể cho ai vô ở chung”.
    “Mình cũng không thể giữ được cho một mình nhà này đâu”.
    Ba còn nhỏ nhẹ giảng, khuyên nhủ theo kinh nghiệm riêng tư mới mang theo vô Nam, nhưng má của An, bà chán nản, bực bội và thất vọng, thêm nghi ngờ tràn ngập. Bà nhắc lại với An, lúc ông đã đi khỏi, bà kể lể với con gái, giọng điệu đầy uất ức:
    “Ổng khoe đồng chí Liên của ổng sản xuất được ngay, cô ta đa năng đa hiệu, ối, tụi nó toàn hết thẩy là đồ ăn cướp. Có mà đa bặm đa trợn thì có”.
    Ít bữa sau, vào tháng bẩy, bà đề nghị với ông Ba là ông lên cơ quan ở đỡ vài ba tuần lễ, vì má bận công chuyện, phải về Long Xuyên khui hụi góp hụi lần cuối. Má hứa hão là góp được hụi bà về lại nhà ngay. Ba thu xếp đi rồi, má khóa trái cửa nhà và cửa cổng vườn trước, hai mẹ con theo cửa sau nhỏ hẹp ra vô kín đáo. Việc đầu tiên là bà khóc, khóc đã nư, bà đề nghị An lên cơ quan, đường Bà Huyện Thanh Quan của ba, gặp ba đòi nợ giùm má.
 
***
 
    “Ba à, ba cho má xin lại đồng hồ, radio và bút máy đi, má nói má cần xài”.
    “Ủa, sao lạ lùng vậy? Cho rồi giờ đòi lại là sao?”
    “Đúng vậy, má xin lại tất cả đồ… cả áo quần mà má đã mua sắm cho ba”.
    “Rồi ba lấy gì ba dùng?”
    “Thì hồi xưa ba dùng những cái gì, thì nay ba lại xài cái đó”.
    “Thiệt là mấy tuần trước, ba có cái gì đâu, có mà toàn đồ hư cũ không à, khi má con sắm cho lô đồ mới, thì ba đã liệng bỏ đồ cũ đi rồi còn đâu”.
    “Con cũng không biết tính sao, mà má nói ba phải trả đồ lại cho má, má đã nói chắc như vậy”.
    “Trời, vậy con không thương ba sao?”
    “Ơ mà, dễ mà, đồ trên người ba, ba tháo ra trả cho má, không thôi bà lên giằng co kỳ lắm. Má con từ hồi nào, bà chắc chắn lắm, ba à”.
    “Tại sao khi không lại đòi?”
    “Tự là má về quê, rồi bị bệnh, má cần tiền uống thuốc hay đi bác sĩ”.
    “Con có tiền riêng không?”
    “Con không có một xu, bị là từ hồi nào tới giờ, má lo mua bán tất cả. Thôi ba, thương con, thì ba trả đồ cho má con đi! Không thôi, mất công má bắt con đi tới đi lui theo ba hoài để đòi, mệt quá!”
    An phải đi đòi nợ cho mẹ như thế tới đâu năm, bẩy lần. Nhưng ba cô có đời nào trả lại. Ông cứ khất lần, khất lần, tuần sau, rồi tuần sau, tuần sau nữa. Má khuyên An cứ kiên nhẫn theo tìm ông mà đòi nợ, để cho ông né tránh và đừng tìm cách trở về nhà của má An. Cứ nói với ba là má còn đau dưới quê, chưa lên Saïgon lại. Như vậy má sẽ có rộng thì giờ, đi tìm đường tìm nẻo, mà mẹ và con ra đi thoát, theo ngoại và cậu mợ ba. Má An rất hối hận đã ở lại, trong danh sách ra đi di tản sau cùng của sở, ai cũng ngạc nhiên tại sao tên của bà lại bị bôi đen, xóa đi.
    Đúng thế, má ân hận đã quyết định sai lầm, đã ở lại chờ đợi một người chồng kỳ quặc, không thể nào giải thích được. Một người chồng cộng sản. Nhưng bà không còn tâm trí nào để khóc lóc như đã khóc mấy bữa đầu. An ôm mẹ và chỉ nghe mẹ lặp đi lặp lại nhiều lần trong bóng tối: “Ba con hết xài được rồi. Ổng chết rồi.”
    Rồi bốn tuần lễ sau, mẹ đã lo xong công chuyện, mẹ để lại giấy tờ nhà cửa, mẹ lo luôn hộ khẩu cho một người bà con từ miền Trung chạy giạt vô Nam. Lần chót, để tránh gặp mặt ba, mẹ lại sai An lên đòi nợ, như để cho cha con vĩnh biệt từ giã. Vẫn giọng điệu ỉ ôi năn nỉ cũ:  “Ba ơi, ba có thương con thì ba trả lại đồ cho má con đi.” Nói xong, An để nhẹ vào tay ba một tờ giấy 100 đồng tiền mới rồi nhẹ nhàng đi thoát ra cửa cantine. Ba của An ngạc nhiên, vừa đứng lên đi tới vài bước chân, thì con bé đã khuất bóng sau bờ tường, bờ tường đường Bà Huyện Thanh Quan, bên đối diện vẫn là trường nữ trung học Gia Long, trường đang reng chuông báo hiệu giờ ra chơi… ra chơi…

 

– Chúc Thanh

(Paris, mai 2023)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.