Hôm nay,  

Trang Thơ

25/05/202313:08:00(Xem: 2991)

NGUYỄN HÀN CHUNG


kkml 


Tôi sinh ra ở làng Phong Nhị xã Điện An bây giờ bên cạnh một ngôi tháp đổ chỉ còn một gò gồm các khối gạch vụn dính vào nhau mà không có hồ. Cuối gò có một cái mả vô chủ mẹ tôi nói đó là cái mả Hời.Tôi không biết Hời là gì cho đến khi lớn lên độ 10 tuổi mẹ tôi chỉ những người nói tiếng Việt lơ lớ da đen sạm. Họ thường ngồi ở bờ sông phía hữu ngạn sông Vĩnh Điện đường xuống chợ chiều. Chợ thuộc phường Vĩnh Điện, Điện Bàn bây giờ để bán thuốc dạo và các vòng vàng trang sức.Tôi đọc Kiều đến câu “Sè sè nấm đất bên đường/ Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh” nên tưởng ra người nằm dưới mộ đó là một nàng cung nữ Chiêm nương nào hồng nhan bạc mệnh. Sau này tới Tháp Bằng An, Mỹ Sơn tôi mới biết có nhiều triều đại bây giờ đã mất và con cháu họ thành người vong quốc. Ba bài tôi viết dưới đây khi còn ở quê tưởng nhớ một quá vãng vàng son Chiêm quốc... Bây giờ nơi đó là đài kỷ niệm quân đội Nam Triều Tiên thảm sát hàng trăm người bà con thân tộc của tôi năm1968 có cây đa dù cao ngất nơi tuổi thơ tôi cùng bè bạn leo cây hái lá đùa giỡn suốt ngày (NHC):


***


Trăng tranh

Người đắm trăng, chìm vào tranh
Tháp tháp lung linh huyền hoặc
Linga hiện thành thánh thể
Sắc hoang phế mê tràn bộ tộc
Tiếng người thảng thốt trăm năm
Chiếc cọ hẩm hiu thổi nồng nàn lên vải
chập chùng khao khát
Trăng tranh không dám quấy nhiễu thời gian
sợ động đến nỗi niềm biên thuỳ cây cỏ
Khách bên trời ngắm đền đài hoang phế
ngắm trăng hay ngắm tranh không ai biết nữa
chỉ biết trăng, tranh và người đọng lại
thành khối ca Chiêm mới mẻ chập chờn
Tôi gặp vô cùng tranh trăng Mỹ Sơn
bằng mối tình Quảng Nam quê kiểng
Trước tháp tháp lung linh huyền hoặc
Trăng Linga đắm vào tranh.


Khúc Chàm nâu

Những chùm rêu bầu bạn áo xiêm em
cuộc hôn phối thời gian và cổ tháp.
điệu múa ấy làm hồi sinh phế tích
trong vô thanh phảng phất nét ca Chàm.
Cỏ bàng hoàng từ mấy trăm năm
em vẫn múa sá chi màu dâu bể.
đã tro bụi những hoàng triều chuyên chế
mọi trò chơi phù phiếm bậc quân vương
Người về đây để được tái sinh em
sự già cỗi hoá thanh xuân quyến rũ
những gót nhảy, tay xoè hông múa
không dễ tìm đâu trên thế gian này
Đừng hao mòn vì một thoáng mưa mây
Chiêm nữ ạ! Em vĩnh hằng tĩnh tại.
cứ vũ lộng hồn em đi, cô gái
thời gian xanh quỳ rạp trước em thôi.
Đừng bắt những chùm rêu phải nhận chịu đổi dời
xin van vỉ kẻ nguôi lòng cổ tích
Tôi muốn hoá thành rêu để ôm em thật chặt
mốc meo nhau ngôn ngữ không lời.
Trong hoang tàn diễm lệ Mỹ Sơn ơi!


Với tháp Bằng An

Người người hoan ca Mỹ Sơn quần tháp rêu phong
trơ trọi một mình em, một tháp
mấy ai biết
muốn trả cái giá bằng an
bao thân thế sa mưa
bụi vùi, rêu lấp
Ta có mấy rượu đâu
mà tiếc đau những cặn giọt thừa
những cọng cỏ trước sân khát khao đòi sáng
dưới cỏ có dế, giun chán vạn rẻo đời sinh, ly, tụ, tán
có khi thèm trơ trọi giống hai ta!
Một là người không có lương tâm hai là bậc vĩ nhân mới dám gọi tháp già
trước huyền hoặc vô cùng ẩn ngữ
không ai trước khi sinh ra đã biết chọn cho mình một bằng an quê xứ
phúc phận đời ta sinh quán cùng em
cớ gì đêm nay không dốc cho sụp đổ hết ưu phiền
bắt đôi nghê đá khuân bàn tiếp rượu
Kính nể tháp không dám lộng ngôn xưng hô mạo muội
chỉ dám mê nhìn thấp thoáng bóng Linga
trong vô tận thời gian
những điệu kèn phương nam thăm thẳm âm ba
đôi mắt cội nhiệm màu gốc tháp
Bấy lâu uống rượu thời gian mà không biết nhắp
lạc giữa sắc rêu những kẽ gạch không hồ


mơ màng nghe giọt bụi rêu khô…
ta quay quắt một mình nâng... một tháp
Một chén nữa thôi rót yêu tràn tan, hợp
ném buồn đau rách rưới phía chân mày
tháp không già thì ta cứ trẻ hây
cái thuở ranh hoang cứ lăm le đòi trèo lên đỉnh tháp
Rượu có chát, rót Thu Bồn ra, dốc tiếp.

– Nguyễn Hàn Chung

 

Cảm nhận ngắn của SẤU MÃ (GS PHD)

Có thể nhận thấy điều gì về cốt cách người thơ được thể hiện qua đây? – Biết kính sợ, biết nâng niu, biết giễu cười và biết… ngạo. Có gì mâu thuẫn giữa kính sợ và ngạo? Không, không mâu thuẫn. Kính sợ là kính sợ cái “huyền hoặc vô cùng ẩn ngữ”, để biết vặn nhỏ lời, và “không dám lộng ngôn”. Còn ngạo là sự bộc lộ thái độ tự nhiên của người luôn tự ý thức, đồng thời hiểu rõ các giá trị đời sống, hiểu rõ cái giá phải trả cho sự bằng an và nỗi cô đơn “trơ trọi một mình em, một tháp”. Ngạo, ngoài ra, là biểu hiện thường thấy ở những cuộc dốc lòng với kẻ tri âm. Lúc đó, chỉ “hai ta” là tồn tại duy nhất có ý nghĩa, dù một trong hai có thể chỉ hiện lên trong tâm tưởng…
    Đọc thơ thấy người, thấy một thời, thấy cả một vùng xứ sở, tuy xa xôi mà luôn gần gũi. Rất nhiều nỗi đời xoắn xuýt quấn quanh hình tượng chính: tháp Bằng An. Hiền huynh, em thích nhiều câu, như thích nhất khổ này: “Ta có mấy rượu đâu/ mà tiếc đau những cặn giọt thừa/ những cọng cỏ trước sân khát khao đòi sáng/ dưới cỏ có dế, giun chán vạn rẻo đời sinh, ly, tụ, tán/ có khi thèm trơ trọi giống hai ta”. Như vừa được gặp trực tiếp đúng một người từ lâu mình quý trọng. – Ảnh nữ Chiêm nương thi nhân Kiều Kiều Maily.

 

***

 

QUẢNG TÁNH TRẦN CẦM

 

Transcendence in Paradise (1935) - Marguerite Blasingame (1906-1947)
Transcendence in Paradise (1935) của Marguerite Blasingame (1906-1947).


vói tay trên sóng  

 

đôi khi tôi thấy nàng trôi giạt

giữa đại dương bao la xám xanh

nhìn mặt trời treo ngược buổi hừng đông

và rất lâu tấp vào bãi cát đầy rong biển

cùng rác rưởi phế thải linh tinh

chào đón ngày mới trong không gian cũ

 

đôi khi tôi dựa cột đá trơ lạnh

bâng quơ nhìn nước triều dần lên

tôi thấy mái tóc đẹp như mây

về giăng ngang chân trời

và hơi thở chới với ngụp lặn trên sóng

bốc hơi chậm từ ly cà phê đen quánh

 

qua hai hốc mắt thẳm sâu

người mẹ ngó quanh cột cờ ảm đạm

ngó tới ngó lui đảo mắt tìm kiếm

(bỡ ngỡ nghe chừng tĩnh vật cũng đau) 

và tôi vô tâm ngó hàng dương phía xa

lung linh tan loãng trong nắng gió huyễn hoặc

 

trong khoảnh khắc lũ chim biển đập cánh kêu thất thanh

một ngày thảng thốt lướt qua

không một ai để lại dấu chân trên cát

không một vết tích  ̶ ̶ ̶  dù thanh mảnh. 

 

chưa một lời chia tay   

 

nàng vụt thoát thân qua màn hình tivi

(nếu không là qua khung cửa sổ)

vượt buổi chiều hối hả

bước chân vào đêm thắp sáng đèn lồng

 

bất chợt nàng cất tiếng cười ha hả

sau cơn khóc tỉ tê

dằn vặt trong một thế giới khác

riêng tư không chia sẻ

ôm chầm nỗi buồn trong sáng pha lê

nỗi buồn không cần khuyến mãi

 

tôi chăm chỉ cắt dán danh tính ưu việt

của chú chó cưng nàng bỏ lại

trân trọng rao hàng trên báo lá cải

này này ông đi qua bà đi lại... 

 

và trong âm vọng giọng cười hả hê

từng chập mắt nàng linh hoạt mở to

lối an nhiên đi vào cõi kỳ bí xa xăm

 

một thoáng chú chó cưng gặm nát mục rao vặt trên báo

chạy như biến qua cánh cửa khép hờ

bóng nó ở lại bên này  ̶ ̶ ̶  với tôi. 

 

– Quảng Tánh Trần Cầm

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.