Hôm nay,  

Nụ Hôn Đầu Tiên Của Nhân Loại: Xảy Ra Sớm Hơn Chúng Ta Nghĩ

02/06/202300:00:00(Xem: 2336)
 
The Kiss by Gustav Klimt
Con người có thể đã biết hôn từ những ngày đầu của nhân loại. Hình: The Kiss – by Gustav Klimt.
 

“Môi trên của tôi dần ướt át, môi dưới thì run rẩy! Tôi sẽ ôm lấy chàng, sẽ hôn chàng.”
– một phiến khắc có niên đại từ 1900-1595 TCN ở Sippar, Mesopotamia (Lưỡng Hà); bản dịch là của Nathan Wasserman, Akkadian Love Literature of the Third and Second Millennium B.C.E.
 
Những dòng chữ cổ (chữ hình nêm) này được khắc trên một phiến đất sét khoảng 4,000 năm tuổi, là một trong những mô tả đầu tiên về nụ hôn lãng mạn. Tuy nhiên, những gợi ý từ khảo cổ học và DNA cho thấy con người đã hôn nhau từ rất lâu, trước cả khi họ có khả năng ghi lại việc đó bằng văn bản. Hành động yêu thương này thậm chí có thể đã tồn tại ngay từ những ngày đầu xuất hiện giống loài của chúng ta.
 
Thật không may, khi nụ hôn được phổ biến thì lại gây ra một hiệu ứng phụ – sự lây lan của bệnh tật. Giờ đây, các khoa học gia nghiên cứu sự tiến hóa của các mầm bệnh dai dẳng đang đào sâu vào lịch sử của nụ hôn, và cố gắng khám phá vai trò lâu đời của nụ hôn trong quá trình lây bệnh.
 
Troels Pank Arbøll, một chuyên gia về chữ hình nêm tại Trường Copenhagen, người chuyên nghiên cứu về lịch sử y học, là đồng tác giả của một quan điểm được đăng trên tạp chí Science vào Thứ Năm tuần qua đã nói về lịch sử cổ xưa của nụ hôn và vai trò của nó trong việc truyền bệnh.
 
Arbøll và Sophie Lund Rasmussen đã nghiền ngẫm các mẫu vật có chữ cổ đại tìm được từ Mesopotamia, chú trọng vào những tài liệu tham khảo bị bỏ sót về nụ hôn và các mô tả bệnh tật. Nghiên cứu đã đẩy lùi niên đại thường được trích dẫn là bằng chứng bằng văn bản lâu đời nhất về nụ hôn, một thủ bản 3,500 năm tuổi từ thời kỳ đồ đồng ở Ấn Độ. Các tác giả mô tả những tấm bia thời Lưỡng Hà còn lâu đời hơn tới 1,000 năm, là bằng chứng từ nghệ thuật cổ đại và DNA. Tuy nhiên, Arbøll nhấn mạnh rằng không nên coi những bản viết 4,500 năm tuổi này là cái nôi ban đầu của nụ hôn.
 
Đó là bởi vì một nụ hôn chỉ thoáng qua và không để lại nhiều điều để các khoa học gia có thể khám phá. Arbøll giải thích: “Nguồn gốc của nụ hôn lãng mạn chắc chắn có từ thời tiền sử và lâu đời hơn những gì chúng ta có thể phát hiện bằng các phương pháp hiện tại.”
 
Hôn nhau có thể thể hiện phong cách riêng, nhưng các nhà nghiên cứu phân loại thành hai kiểu hôn chính. Đầu tiên là những nụ hôn từ những thành viên gia đình hoặc bạn bè, dường như khá phổ biến trong các xã hội trên toàn thế giới. Còn kiểu thứ hai là nụ hôn môi kéo dài hơn, nụ hôn của các cặp tình nhân. Và đây mới là trọng tâm của nghiên cứu này.
 
Tại sao mọi người khóa môi và trao đổi nước bọt với nhau? Sự quyến rũ của nụ hôn vẫn đang là một chủ đề của các nghiên cứu về tâm lý và sinh lý. Một số cho rằng hôn giúp con người đánh giá tình cảm khả thể. Thí dụ, khi hôn nhau, người ta có thể ngửi thấy hơi thở của đối phương có mùi khó chịu. Mùi hơi thở khó chịu cũng có thể cảnh báo một số phần trong não về một số loại bệnh tật hoặc các dấu hiệu khác cho thấy ta không khỏe mạnh. Và nước bọt được truyền từ người này sang người khác có chứa hormone và các hợp chất khác, có thể cung cấp manh mối cho não để xác định người mà ta đang hôn có thực sự là một nửa của ta hay không.
 
Một số nghiên cứu cho thấy hôn cũng giúp xây dựng sự gắn kết giữa các cặp đôi và các cặp vợ chồng hạnh phúc thường hôn nhau nhiều hơn, dù các chuyên gia chưa thể giải thích chính xác cách thức hoạt động của nó. Một lý do đơn giản có thể là hôn khiến ta cảm thấy dễ chịu; khi hôn, phần môi và lưỡi nhạy cảm của chúng ta sẽ kích hoạt các vùng não liên quan đến việc tăng khoái cảm và giảm căng thẳng.
 
Các loài vượn cũng có hôn nhau. Ở loại tinh tinh lùn, hôn miệng được coi như một phần của hành vi tình dục. Tinh tinh sử dụng những nụ hôn má (platonic kiss) như một phần trong các tương tác xã hội trong bầy, đàn. Có thể những nụ hôn cũng đã đóng những vai trò tương tự trong thời kỳ đầu của Homo sapiens. Nói như vậy nghĩa là khuynh hướng hôn của chúng ta có thể có lịch sử lâu đời ngang ngửa với chính giống loài của chúng ta? Thực sự thì các khoa học gia chưa thể xác định được vấn đề này.
 
Trong DNA của chúng ta, có thể tìm thấy bằng chứng rõ ràng rằng loài người từng có quan hệ tình dục với người Neanderthal. Nhưng họ có hôn nhau không? Khi nghiên cứu mảng bám trên răng của người Neanderthal, các khoa học gia đã phát hiện ra dấu hiệu di truyền của một vi sinh vật 48,000 năm tuổi, vốn vẫn được tìm thấy trong miệng con người ngày nay, và khác với những vi sinh vật trên người Neanderthal thời đại đó. Sao có thể? Một khả năng chắc chắn là hôn, mặc dù đó không phải là khả năng duy nhất, bởi vì hai loài cũng có thể đã ăn uống chung.
 
Các gợi ý cũng tồn tại từ nghệ thuật và khảo cổ học. Các nhân vật ôm nhau trong tác phẩm điêu khắc Ain Sakhri 11,000 năm tuổi, tác phẩm lâu đời nhất mô tả về quan hệ tình dục, cũng có thể chứa trong đó một nụ hôn say đắm. Bởi vì mẫu vật thiếu các đặc điểm trên khuôn mặt nên việc diễn giải là tùy cảm nhận mỗi người.
 
Chữ viết cổ xuất hiện vào khoảng năm 3200 TCN và trong vài trăm năm, nó dường như chỉ giới hạn trong các văn bản hành chính. Sau một thời gian, rồi cũng phải tới lúc, các chủ đề về các mối quan hệ yêu đương đã được đưa vào ghi chép của người Lưỡng Hà, và cùng với đó là những tài liệu đầu tiên về nụ hôn cách đây khoảng 4,500 năm.
 
Arbøll nói: “Những trường hợp thực tế đầu tiên có vẻ như là những câu chuyện thần thoại. Nhưng rõ ràng thế giới thần thánh cũng là một dạng phản ánh những gì diễn ra giữa con người với nhau. Tuy nhiên, trong những câu chuyện thần thoại thì nụ hôn có vẻ liên quan đến ái tình, tình dục. Cho nên, thật thú vị khi họ hình dung các vị thần của mình theo cách đó.”
 
Trong các văn bản khác của người Lưỡng Hà, các thí dụ về nụ hôn cho thấy đó là một phần phổ biến trong quan hệ lãng mạn giữa các cặp vợ chồng – và là một ham muốn nguy hiểm của những người chưa kết hôn.
 
Trong một tài liệu pháp lý cổ từ thành phố Larsa của Lưỡng Hà khoảng năm 1900-1595 TCN, được dịch bởi Marten Stol từ Women in the Ancient Near East, một phụ nữ tên là Shat-Marduk đã thề sẽ cắt đứt liên lạc với tình nhân bất chính của mình: “Chàng sẽ không quay lại [với tôi], và chàng sẽ không mời gọi tôi ‘chuyện nam nữ.’ Chàng sẽ không hôn môi tôi, và tôi sẽ không cho phép chàng làm ‘chuyện nam nữ’ với mình. Nếu chàng mời gọi tôi sà vào lòng chàng, thì tôi nhất định sẽ báo với các bô lão và trưởng làng.”
 
Và Lưỡng Hà không phải là nơi duy nhất người ta biết ‘khóa môi’ ở thời cổ đại. Arbøll lưu ý rằng các thí dụ từ Ấn Độ và Ai Cập cho thấy một khu vực rộng lớn mà nụ hôn ái tình đã tồn tại từ thời cổ đại.
 
Charlotte Houldcroft, nhà sinh học phân tử tại Trường Cambridge, cho biết: “Bài viết này bổ sung kiến thức lịch sử của chúng ta về các hành vi thân mật của con người như hôn nhau, và mang đến cái nhìn sâu sắc hấp dẫn về cuộc sống cá nhân của người Lưỡng Hà cổ đại từ những ghi chép rất lâu đời.”
 
Mặc dù có lịch sử lâu đời, nhưng ngày nay nụ hôn không còn nhan nhản khắp nơi nữa. Một nghiên cứu năm 2015 về 168 nền văn hóa trên toàn cầu cho thấy nụ hôn lãng mạn chỉ phổ biến ở khoảng một nửa các nhóm đó. Và khi hôn hít trở nên phổ biến, một số phải trả giá cho trải nghiệm này.
 
Các loại bệnh bao gồm vi rút herpes simplex 1 (HSV-1), vi rút Epstein-Barr, vi rút parv ở người và cảm lạnh thông thường có thể lây lan qua nước bọt, vì vậy hôn hít có thể làm lây lan các bệnh này trong toàn bộ quần thể. Một nghiên cứu cho rằng hàng chục triệu, thậm chí 1 tỷ vi khuẩn có thể được trao đổi khi người ta hôn sâu.
 
Theo các ghi nhận, thì người Lưỡng Hà không tin rằng nụ hôn đóng vai trò lây lan bệnh truyền nhiễm. Nhưng rất có thể nó đã xảy ra. Thật khó để chẩn đoán bệnh chỉ dựa trên các mô tả cổ xưa từ văn bản chữ hình nêm. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu lưu ý rằng bệnh răng miệng của người Lưỡng Hà, được gọi là bu'sanu, có thể là bị mụn rộp ở miệng. Ít ra thì cũng có một số nhân vật trong thế giới cổ đại có vẻ đã nghi ngờ rằng hôn nhau có ảnh hưởng đến sức khỏe. Ở Rome, Hoàng đế Tiberius đã cố gắng cấm hôn trong một số trường hợp, có thể vì nó được cho là làm lây lan bệnh lở miệng. (Những nỗ lực này đã không thành công.)
 
Năm ngoái, Houldcroft và các đồng nghiệp đã sử dụng DNA cổ đại để giải trình tự bộ gen của virus herpes và lập biểu đồ tiến hóa của nó. Họ cho rằng chủng HSV-1 hiện đang chiếm ưu thế, đã ra đời cách đây 5,000 năm, trong thời kỳ di cư từ Âu-Á đến Châu Âu trong thời đại đồ đồng, và được thúc đẩy bởi sự gia tăng nhanh chóng của một tập tục văn hóa mới lan truyền giữa các quần thể hỗn hợp: hôn sâu.
 
Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO) ước tính rằng hai phần ba dân số thế giới dưới 50 tuổi, khoảng 3.7 tỷ người, bị nhiễm HSV-1.
 
Theo Arbøll và Rasmussen, vì hài cốt của người cổ đại cũng mang lại bộ gen của nhiều mầm bệnh lây truyền qua nước bọt, nên có thể nói các bệnh lây truyền qua nụ hôn đã xuất hiện từ thời tiền sử. Nhưng bằng chứng về sự phổ biến lâu dài của nụ hôn khiến giả thuyết cho rằng chủng HSV-1 phát sinh từ một phong trào hôn môi, truyền từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác, ít có khả năng xảy ra hơn.
 
Với sự pha trộn văn hóa đã biết giữa các khu vực của thế giới cổ đại, được chứng minh bằng sự trao đổi đồ vật, công cụ và gen, Arbøll cảm thấy rằng nụ hôn được nhiều người biết đến, nếu không muốn nói là được chấp nhận rộng rãi. Nhưng ông cũng nói thêm rằng: “Có một số người không chấp nhận chuyện hôn, có thể do họ cảm thấy nó kỳ kỳ sao đó, và họ vẫn sẽ không chấp nhận nó chỉ vì một số di dân đến ở và nói, ‘Này, hôn nhau tuyệt lắm đấy!’”
 
Cung Đô biên dịch theo bài viết “Humanity’s First Recorded Kiss Was Earlier Than We Thought” của Brian Handwerk, được đăng trên trang Smithsonianmag. 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thuế quan — thứ từng vắng bóng trên mặt báo suốt nhiều thập niên — nay trở lại trung tâm chính sách kinh tế Hoa Kỳ, trong lúc Tối Cao Pháp Viện đang xét tính hợp hiến của các mức thuế toàn cầu do Tổng thống Donald Trump ban hành. Bài viết dưới đây, theo phân tích của Kent Jones, giáo sư kinh tế danh dự Đại học Babson, đăng trên The Conversation ngày 11 tháng 12 năm 2025, nhằm giải thích cặn kẽ thuế quan là gì, ai thực sự gánh chịu, và vì sao vấn đề này đang tác động trực tiếp đến túi tiền và tương lai kinh tế nước Mỹ. Thuế quan, nói gọn, là thuế đánh lên hàng hóa nhập cảng. Khi một công ty Hoa Kỳ nhập hàng từ nước ngoài, Cơ quan Hải quan và Biên phòng Hoa Kỳ sẽ gửi hóa đơn thuế; doanh nghiệp phải nộp đủ thì hàng mới được thông quan. Trên giấy tờ, người trả thuế là nhà nhập cảng. Nhưng trên thực tế, phần lớn chi phí ấy được chuyển thẳng sang người tiêu dùng qua giá bán cao hơn — từ thực phẩm, xe cộ cho đến quà tặng cuối năm.
Vào những ngày cuối tháng Tám của năm 2025, tôi cùng hai đồng nghiệp đã quyết định từ bỏ chức vụ tại Cơ Quan Kiểm Soát và Phòng Bệnh (CDC). Chúng tôi ra đi vì không thể tiếp tục im lặng khi chứng kiến tính liêm chính khoa học ngày một xói mòn, còn cơ sở hạ tầng y tế công cộng của quốc gia cứ dần rệu rã dưới sự lãnh đạo của Robert F. Kennedy Jr., Bộ trưởng Bộ Y tế và Nhân sinh (HHS). Khi đó, chúng tôi đã khẩn thiết kêu gọi Quốc Hội, các tổ chức chuyên ngành và các bên liên quan trong lĩnh vực y tế công cộng hãy can thiệp trước khi xảy ra những thiệt hại không thể cứu vãn. Tôi rời đi với niềm tin mọi thứ rồi sẽ được chấn chỉnh.
Khi nhìn bản đồ thế giới và duyệt xét lịch sử hình thành, chúng ta nhận thấy có rất nhiều điểm tương đồng giữa Canada và Úc Đại Lợi.
Người Việt miền Nam từng trải qua một bài học cay đắng: sau 1975, những lời nói về “thống nhất” và “hàn gắn” không bao giờ đi cùng sự nhìn nhận. Không một lời chính thức nào nhắc đến các trại cải tạo, những cuộc tước đoạt, hay những đời sống bị đảo lộn dưới tay những người nhân danh chiến thắng. Không có sự thật, hòa giải chỉ là chiếc khẩu hiệu rỗng. Câu chuyện nước Mỹ hôm nay, khi chính quyền muốn làm mờ các chứng tích về chế độ nô lệ, cho thấy một điều quen thuộc: không quốc gia nào trưởng thành bằng cách giấu đi phần tối. Sự thật không tự biến mất chỉ vì người ta muốn quên.
Hai mươi năm trước, Thống đốc Jeb Bush ký đạo luật “stand your ground” (đứng vững tại chỗ), được giới ủng hộ xem là một biện pháp chống tội phạm dựa trên “lý lẽ thường tình”. Lời hứa khi ấy: bảo vệ người dân tuân thủ pháp luật khi họ dùng vũ lực để tự vệ. Sau vụ George Zimmerman được tha trong cái chết của Trayvon Martin, đồng bảo trợ dự luật, dân biểu Dennis Baxley, vẫn bảo rằng “trao quyền” cho người dân sẽ giúp chặn bạo lực.
“Di sản, còn có thể mang hình thức phi vật thể của lối nghĩ, lối sống, lối hành động, mà con người miền Nam khi xưa đã được trau dồi, hun đúc qua tinh thần của thể chế, của một nền dân chủ hiến định. Chính con người, chính cộng đồng xã hội mới là trung tâm và cũng là cội nguồn lẫn mục đích của mọi bản hiến pháp.” – Hải Sa, “Ngót 60 năm từ một khế ước nhân quyền dang dở,” trang 56 Cùng với tin tạp chí Luật Khoa vừa được đề cử giải thưởng Tự Do Báo Chí năm 2025 của Tổ chức Phóng viên Không Biên giới, ban chủ trương trong một thư tới độc giả vào cuối tháng 10 đồng thời thông báo việc phát hành ấn bản đặc biệt với chủ đề “70 Năm Việt Nam Cộng Hòa – Chân Dung & Di Sản” gồm 86 trang, với 14 bài vẽ lại hành trình từ ra đời tới bị bức tử của nền dân chủ duy nhất của Việt Nam và di sản của thể chế yểu mệnh này để lại. Bài này nhằm điểm qua nội dung của ấn bản đặc biệt này, và sẽ chú trọng vào một bài đã gợi nơi người viết một suy tư sâu sắc.
Một nhóm sử gia, thủ thư và tình nguyện viên đang gấp rút chạy đua với thời gian – và với chính quyền Trump – để giữ lại những mảnh ký ức của nước Mỹ.Từ hình ảnh người nô lệ bị đánh đập, các trại giam người Mỹ gốc Nhật trong Thế Chiến II, đến những bảng chỉ dẫn về biến đổi khí hậu ở công viên quốc gia, tất cả đều có thể sớm biến mất khỏi tầm mắt công chúng. Trong vài tháng gần đây, hơn một ngàn sáu trăm người – giáo sư, sinh viên, nhà khoa học, thủ thư – đã âm thầm chụp lại từng góc trưng bày, từng bảng giải thích, để lập ra một kho lưu trữ riêng tư. Họ gọi đó là “bản ghi của công dân” – một bộ sưu tập độc lập nhằm bảo tồn những gì đang tồn tại, trước khi bị xoá bỏ bởi lệnh mới của chính quyền.
Hai trăm mười một năm trước, mùa hè năm 1814, quân Anh kéo vào Washington. Trước khi phóng hỏa Bạch Ốc, họ ngồi xuống dùng bữa tại bàn tiệc đã dọn sẵn cho Tổng thống James Madison. Khi bữa ăn kết thúc, lính Anh đốt màn, đốt giường, và tòa nhà bốc cháy suốt đêm. Sáng hôm sau, cơn mưa lớn chỉ còn rửa trôi phần tro tàn của nơi từng là biểu tượng cho nền cộng hòa non trẻ. Tuần này, phần Cánh Đông của Bạch Ốc bị phá sập. Không phải bởi ngoại bang, mà bởi chính quyền tại vị. Và lần này, không ai được báo trước. Người Mỹ chỉ biết chuyện qua những bức ảnh máy xúc cày nát nền nhà, cùng lời xác nhận ngắn ngủi từ các viên chức trong chính phủ.
Hai trăm năm rưỡi sau ngày dựng cờ độc lập, nước Mỹ vẫn chưa thoát khỏi chiếc bóng của bạo lực. Mỗi khi một viên đạn nổ, người ta lại nói: “Đây không phải là nước Mỹ.” Nhưng chính câu nói ấy lại là cách người Mỹ tránh nhìn thẳng vào chính mình. Bài viết của giáo sư Maurizio Valsania (Đại học Torino), đăng trên The Conversation ngày 12 tháng 9, 2025, nhắc lại lịch sử mà nhiều người muốn quên: từ nhựa đường và lông gà đến súng ngắn buổi bình minh — một mạch dài nối liền hai thế kỷ, nơi tự do và bạo lực chảy cùng dòng máu.
Một cuộc thăm dò dư luận của AP-NORC thực hiện vào tháng 9 & 10 cho thấy hầu hết dân Mỹ coi việc chính phủ đóng cửa hiện tại là một vấn đề nghiêm trọng và đổ lỗi cho cả hai Đảng Cộng Hòa, Đảng Dân Chủ và cả Tổng Thống Trump với những tỷ lệ gần như ngang nhau. Cuộc thăm dò cũng cho thấy người Mỹ lo lắng về kinh tế, lạm phát và bảo đảm việc làm. Họ đang giảm những chi tiêu không thiết yếu như quần áo và nhiên liệu. Đa số cho rằng nền kinh tế yếu kém. Chi phí thực phẩm, nhà ở và chăm sóc sức khỏe được coi là những nguồn chính gây khó khăn tài chính.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.