Hôm nay,  

Mùa hè, hoa phượng và gỏi gà

14/06/202308:18:00(Xem: 3654)
Tùy bút

hoa phuong


1.

Mùa hè, nói chuyện hoa phượng có vẻ... “xưa rồi Diễm”, bởi lứa tuổi học trò của quê mình, từ hồi nẵm đã thuộc nằm lòng những câu hát: “ Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn...” rồi “ Tiếng ve nức n buồn hơn tiếng lòng... Màu hoa phượng thắm như máu con tim...” trong bài hát “Nỗi buồn hoa phượng” của cố nhạc sĩ Thanh Sơn sáng tác từ những năm 1963 của thế kỷ trước.
    Không biết từ bao giờ, các trường học ở Việt Nam nói chung và miền Nam nói riêng, trong sân trường, hoặc trước sau, các lớp học đều có trồng những cây hoa phượng, vừa để lấy bóng mát, vừa như một... chứng nhân của các cô cậu học trò, với biết bao kỷ niệm của một thời “cắp sách đến trường”, “mài đũng quần trên ghế nhà trường”, đặc biệt là với lứa tuổi chớm lớn, vừa mới dậy thì, với biết bao mơ mộng.
    Thuở ấy, miền Nam đang trong cuộc chiến tranh, sự ly biệt, chia lìa có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào. Nhất là mỗi khi tiếng ve bắt đầu dậy lên khúc ca “hè về, hè về” nức nở, rồi phượng hồng rực đỏ, “thắp lửa” sân trường. Ba tháng nghỉ hè, đăng đẵng chia xa, người đi về quê, tứ tán, có khi năm học tới không trở lại trường bởi bom đạn và khói lửa chiến tranh.
    Mùa hè, hoa phượng bỗng trở thành đề tài thật buồn và cũng thật lãng mạn trong văn chương và nhạc, họa. Ghi dấu một thời kỷ niệm không thể nào quên...
 
2.
Hoa phượng màu đỏ thắm, dĩ nhiên rồi. Cho dầu những năm gần đây, Đà Lạt, xứ sở ngàn hoa đã có thêm phượng tím, thậm chí phượng trắng và cả phượng vàng! Song trong ký ức mỗi người, hoa phượng vẫn luôn là màu hoa đỏ, duy nhất trên mỗi đóa hoa đỏ thắm, có một cánh hoa lấm tấm màu trắng hoặc vàng. Cánh hoa duy nhất mà lứa tuổi thơ học trò, mỗi khi hái xuống, thường ngắt ra và đưa lên miệng... nhấm nháp cánh hoa, nghe mùi vị, nhân nhẫn lẫn chát chát, chua chua thích thú và thú vị, nhưng chỉ nhấm nháp vài cánh cho vui. Không ai... dám ăn hết hoa phượng, hay một lúc nhấm nhiều cánh hoa, cho dù có lúc đói, khát, hay thiếu thốn thức ăn?
    Hoa phượng tàn, những trái phượng non, dài và dẹp bắt đầu nhú ra theo thời gian, xanh mướt mát, treo lủng lẳng trên cành, khi đã gần cuối hạ! Bọn nhóc học trò gọi đó là “kiếm phượng” và cũng thường hay hái trái làm kiếm, chơi trò chơi trận giả “đấu kiếm”, kiếm gãy, hay bị chẻ hai, sẽ tước ra, và lấy những hạt non xanh phía trong, chia nhau ăn... cho vui? Hạt có mùi hăng hắc, nhưng ngọt và bùi. Nghe “người lớn” nói, ăn nhiều có thể trị... giun, sán nhưng bị “say”? Nên cũng chẳng có đứa nào dám ăn nhiều để thử cảm giác bị say như thế nào. Trái khi già khô lại, lớp vỏ màu đen, vẫn có thể chẻ ra, lấy hạt, nấu như nấu các loại đậu, chín ăn dai dai, bùi bùi, nhưng trẻ con lúc ấy, nhất là các cô cậu “tuổi mới lớn” cũng rất ít khi ăn và không hiểu vì sao? Có lẽ sợ “say” hoa phượng, hạt phượng thì ít mà sợ... trúng độc “hoa tình” như trong truyện chưởng của Kim Dung, một loại truyện “kiếm hiệp kỳ tình” đang bán “đắt như tôm tươi” vào thời buổi bấy giờ chăng?
 
3.
Tuổi đời ngày càng thêm chồng chất, vì tự do và cuộc sống mà chân bôn tẩu khắp nơi, song kỷ niệm xưa vẫn luôn sống dậy trong tâm trí mỗi khi nghe có tiếng ve ran, hay nhìn hoa phượng nở đỏ ở đâu đó. Bất chợt một hôm trở về cố quận, buổi chiều bạn rủ ra quán ven sông đãi món “Nhộng ve lăn bột” mà... buồn quá đỗi! Bỗng thương tiếng ve, đang trỗi lên rền rã trên tàn cây si cạnh quán. Từ những ấu trùng ve, đang còn là những con nhộng, chưa mọc đủ chân, cánh, đã bị đào lên từ lòng đất, đem tẩm một lớp bột và chiên giòn, làm món nhậu “độc” cho thực khách. Sợ một ngày nào đó, tiếng ve cũng sẽ không còn, thì còn gì ý nghĩa ý vị của mùa hè như câu thơ của thi sĩ Trần Dạ Từ, mà lớp học trò chúng tôi ngày xưa còn nhớ mãi: “Lần đầu ta ghé môi hôn/ Trăm con ve nhỏ hết hồn kêu ran...”
    Rồi nhiều năm trôi qua, chỉ vừa mới đầu hè năm nay, trên các mạng xã hội và TikTok lại nóng lên với chuyện... “Gỏi gà hoa phượng” trong các cửa hàng từ bình dân đến sang trọng ở quê nhà. Nhắn tin hỏi cô bạn thân hồi nẵm, cô bạn hồn nhiên gửi cho mình một lúc vài ba tấm hình chụp những dĩa gỏi gà hoa phượng đỏ au, bắt mắt mà nhà hàng cô cũng mới vừa chế biến, cô còn... “hồ hởi” gửi luôn công thức làm một dĩa gỏi gà hoa phượng với lời nhắn: “Chuyển chị để làm cho ông anh ăn... cho đỡ nhớ quê hương nha”.
    Ngồi nhìn ảnh dĩa gỏi, lòng chợt ngổn ngang trăm mối? Nghe mắt cay, rưng rưng. Cổ họng nhân nhẫn, chát đắng mùi vị hoa phượng năm xưa... Thương và xót cho những cánh hoa phượng cũng đang bị... bóp trộn, xé tơi tả như những miếng thịt gà kia. Cái “độc lạ” của món ăn, từ suy nghĩ của con người nhiều khi cũng rất “quái lạ”? Chợt nhớ đã đọc đâu đó tác phẩm “Hoa phượng đừng đỏ nữa” của nhà văn Nhã Ca viết đâu ở nước ngoài từ những năm 1989, lại thêm bao nỗi nhớ...
    Có một thời đói đến rã ruột, vàng mắt, phải ăn độn khoai, sắn, bo bo, nhưng không ai nghĩ đến bắt nhộng ve để ăn, và cũng không ai nỡ đi vặt từng cánh hoa được mệnh danh là “Hoa học trò” để ăn. Vậy mà...

– Trn Hoàng Vy

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.