Hôm nay,  

Thương mãi nụ quỳnh hương

18/07/202316:31:00(Xem: 3016)
Truyện

ao-dai

Những cái nắm tay thời thanh xuân chưa đủ để thành duyên nợ

Sông cứ lở bồi làm cho người sợ những chuyến sang sông…

(Thơ Trần Đình Thọ)

 

Hai chị em Quỳnh Trâm và Bội Trâm hôm nay được mẹ dạy làm món bánh trái cây bằng bột đậu xanh để đón anh gia sư của hai nàng. Những chiếc bánh xinh xinh đủ màu sắc của trái khế vàng, trái ớt đỏ, trái mảng cầu… được bày sẵn trên khay thật hấp dẫn.
    Quỳnh Trâm năm nay 13 tuổi, Bội Trâm 10 tuổi. Hai chị em rất dễ thương, nét mặt thanh tú, thông minh giống nhau đến mức như búp bê chị và búp bê em. Hai nàng sinh trưởng trong một gia đình thương gia có cửa hiệu buôn bán ở đường Phan Bội Châu, Huế. Dân gian thường gọi là đường Ngã Giữa (từ 1976 đường đổi tên Phan Đăng Lưu). Cửa hiệu lúc nào cũng khách khứa vào ra tấp nập. Để đáp ứng nhu cầu công việc làm ăn ngày càng phát đạt, ba mẹ mướn thêm người làm. Còn hai chị em chỉ có mỗi chuyện học hành và học nữ công gia chánh ở trên tầng lầu. Trước ban công bác Tâm (ba của hai nàng) đặt một chậu cây quỳnh. Đó là loại hoa mà qua sách vở hai chị em rất thích. Ba dặn hai chị em rằng:
    – Cây quỳnh thường trồng ở chỗ có nhiều nắng chiếu vào nhưng tránh ánh nắng trực tiếp. Vì vậy, luôn để đất của chậu quỳnh khô mặt, rồi mới tưới nước. Không nên tưới thường xuyên. Vì cây quỳnh chịu khô hạn. Tưới nhiều nước, rễ sẽ bị úng, cây trồng mãi không thấy có lộc non và không có hoa.
    Lúc rảnh rỗi hai chị em thường ra đứng ban công ngắm cây quỳnh và chờ đợi mùa hoa nở sớm.
    Bắt đầu từ hôm nay, bác Tâm mời một anh sinh viên về dạy kèm cho hai chị em. Anh tên là Dương Duy Phước, người ở Nguyệt Sương, một xã vùng ven thành phố.  Anh là người thông minh, hiếu học và rất chịu thương, chịu khó. Anh hiểu gia cảnh khó khăn của mình. Ba của anh mất sớm, nhà chỉ có hai mẹ con nên sớm tự lập từ lúc bắt đầu bước vào lớp Đệ tam Trường Quốc Học. Ngoài giờ học, anh đi làm thêm như làm gia sư cho con cái các gia đình có điều kiện trong thành phố. Năm nay được người bạn giới thiệu anh với gia đình Bác Tâm.
    Buổi hẹn gặp đầu Bác Tâm chịu anh liền vì thấy dung mạo khôi ngô, dáng vẻ học thức, ăn nói lễ phép, lịch thiệp. Bác Tâm rất lấy làm hài lòng khi gửi hai cô con gái cưng cho anh kèm cặp để bước trên con đường học vấn mà gia đình rất kỳ vọng. Quỳnh Trâm năm nay học lớp Đệ lục của trung học đệ nhất cấp. Bội Trâm học lớp nhì cấp tiểu học. Hôm nay là buổi học đầu tiên, hai chị em tiếp thu rất tốt, làm anh gia sư cũng vui trong lòng. Hai bé ngoan, chăm học và dễ thương. Duy Phước thấy lòng ấm áp khi được gia đình Bác Tâm tin cậy và đặc biệt hai cô trò nhỏ quý mến.
    Cứ mỗi tuần, ngày ba buổi, sau bữa cơm tối là anh Duy Phước tới căn phòng học trên lầu nhà bác Tâm để hướng dẫn hai chị em học. Duy Phước dạy đủ các môn trong chương trình học cho hai em. Quỳnh Trâm và Bội Trâm thông minh sáng dạ nên tiếp thu rất nhanh. Nhiều bữa làm xong bài tập sớm 15 phút  thì anh gia sư lại kể chuyện văn chương, khi thì một truyện ngắn của một nhà văn tên tuổi, khi thì giảng giải những điều các em thắc mắc về hiện tượng tự nhiên hay cuộc sống.  Hôm nay, làm bài xong sớm đạt kết quả tốt, thầy giáo trẻ và hai cô trò nhỏ ra ban công chơi thư giản một chút. Cây hoa quỳnh đã bắt đầu tỏa ra những nhánh mới, hứa hẹn mùa hoa sẽ tới. Bội Trâm nói:
    – Em chờ dài cả cổ mà chưa thấy Quỳnh trổ bông?
    Anh Duy Phước ân cần giảng giải:
    – Trong thiên nhiên, có nhiều loài cây phải rất lâu mới ra hoa một lần như hoa Quỳnh, khi hoa nở dân gian vẫn quan niệm hoa Quỳnh mang lại điềm lành cho gia chủ (nhưng chỉ nở về đêm).
    Quỳnh Trâm mỉm cười rồi thỏ thẻ:
    – Tên em có chữ Quỳnh chắc là ba mẹ yêu hoa Quỳnh lắm mới đặt tên con gái đầu có hơi hướng của Quỳnh. Vậy anh có thể cho em biết thêm về hoa Quỳnh?
    – Hoa Quỳnh (tên chính xác là Chi Quỳnh) thuộc họ xương rồng, có nguồn gốc từ Trung Mỹ.
Đó là loài hoa chỉ nở về đêm, hương nhẹ nhàng thanh tao và quyến rũ, những bông hoa rất đẹp với màu trắng tinh khôi nhưng chỉ nở được hai tiếng là hoa sẽ tàn và đó là phút giây đẹp nhất của nó.
    Bội Trâm hỏi:
    – Vậy Quỳnh nở bông vào mùa nào trong năm? Sao em nghe nói nó không chịu nở vào ban ngày. Đợi mọi người ngủ rồi mới nở là sao?
    Anh lại ôn tồn nói tiếp:
    – Quỳnh thường nở vào cuối mùa hè và đầu mùa thu. Hoa Quỳnh nở vào ban đêm trong khoảng thời gian từ 8-9 giờ tối. Bởi vậy, nhiều người có thú vui tao nhã ngắm hoa quỳnh nở.
    Bội Trâm nhún vai tiếc rẻ:
    – Hoa đẹp và hương thơm vậy mà chỉ nở về đêm.
    Anh Duy Phước nói:
    – Nguyên nhân hoa Quỳnh nở về đêm được các nhà sinh vật học lý giải rằng nhằm để tránh cái ánh nắng ban ngày của mặt trời. Và vì sao hoa quỳnh chỉ tồn tại từ 3-4 tiếng là do hoa Quỳnh cần giảm sự bốc hơi nước. Do vậy, hoa Quỳnh nở rồi lại tàn ngay, đây cũng là đặc tính để hoa này có thể thích nghi được với cuộc sống. Nó khiêm nhường nở về đêm và chỉ dành cho những tâm hồn thanh tao biết đợi chờ. Hoa Quỳnh còn có ý nghĩa là loài hoa tượng trưng cho một “vẻ đẹp thủy chung”, như một tình yêu chung thủy, dâng hiến cho người tình trăm năm với một tâm hồn thanh tao và chỉ nở một lần cho tình yêu rồi phai tàn.
    Cả ba im lặng hồi lâu chìm vào suy tưởng. Gia sư họ Dương tiếp:
    – Trong những đêm trăng thanh, bên khung cửa sổ, cầm một tách trà ngắm nhìn những cánh hoa trắng tinh khiết, quyến rũ đua nhau nở trong đêm, tỏa hương thơm dìu dịu, là một thú vui tao nhã. Các cụ ngày xưa canh thời gian hoa quỳnh nở, mời bạn bè đến ngắm hoa nở, đối ẩm bên tách trà, luận sự đời cũng là một một thú vui nhàn nhã, cũng là một trong những cách hưởng thụ cuộc sống,
    Nghe anh giải thích, hai chị em càng mong chờ Quỳnh nở hoa. Quỳnh Trâm dặn:
    – Khi hoa nở, em sẽ báo anh qua ngắm hoa cùng tụi em!
    Duy Phước đáp:
    – Anh nhớ rồi và rất vui vì điều đó!
    Phải nói anh giỏi đều các môn và dạy rất có tâm. Anh truyền đạt kiến thức dễ hiểu. Vì vậy, từ nhỏ anh đã có nguyện vọng thi vào sư phạm. Từ ngày có anh Duy Phước kèm cặp hai chị em học hành tiến bộ nhanh lắm. Hai chị em quý “anh thầy trẻ”của mình và cũng rất hứng thú trong học tập. Đặc biệt là Quỳnh Trâm tỏ ra rất có cảm tình với thầy giáo trẻ. Thời gian thấm thoắt mới đó mà năm nay Quỳnh Trâm đã đậu vào lớp Đệ tam của trường Trung học Nữ Thành nội, còn Bội Trâm vào lớp Đệ lục. Hai chị em cũng muốn sau này sẽ làm cô giáo. Hai chị em, mỗi người mỗi vẻ nhưng đều toát lên vẻ thanh tú. Bội Trâm đôi mắt rất có hồn, da trắng, mái tóc vàng mơ mỏng như tơ. Quỳnh Trâm 16 tuổi đã ra dáng thiếu nữ rồi! Đôi mắt đen láy, hàng mi cong dài. Đôi má ửng hồng trên khuôn mặt trái xoan. Mái tóc thề đen nhánh xõa bờ vai thơm ngát hương bồ kết. Mỗi lần đi học về trong tà áo dài, bước đi nhẹ nhàng khoan thai. Cô làm việc gì cũng giỏi từ nấu các món, làm bánh hay đan lát thêu thùa rất khéo tay. Những  ngày không có giờ dạy, nàng cảm thấy nhà thiếu vắng một người, nàng trộm nghĩ: “Chẳng lẽ con tim bắt đầu xao xuyến rồi sao! Nhưng không được, phải học trước đã! Thương ai, để trong lòng còn chuyện học vẫn là ưu tiên một.”
    Còn Duy Phước không hiểu sao ngồi cạnh Quỳnh Trâm thì có cảm giác bồi hồi khó tả, nên anh thường ý tứ, bổn phận người gia sư và ngồi nghiêm túc, phía đối diện để chỉ bảo cho hai em học bài một cách cặn kẽ, dễ hiểu nhất có thể.
    Thấm thoắt thời gian trôi qua, anh Duy Phước đã là một chàng thanh niên rắn rỏi cương nghị mà lịch thiệp, còn hai cô tiểu thư cũng mặn mà duyên dáng lắm. Mỗi lần làm bài tập, Quỳnh Trâm và Duy Phước vô tình chạm tay nhau, rồi ánh nhìn trìu mến của cả hai dành cho nhau báo hiệu cho một cuộc tình mới chớm. Mỗi lần Duy Phước về dưới quê với mẹ mấy ngày, Quỳnh Trâm cảm thấy thật trống trải. Cô tự hỏi lòng: “Hay là mình đã yêu?” Vì mỗi lần bắt gặp ánh mắt trìu mến của Duy Phước, nàng đem lòng thương tự bao giờ. Nhưng con nhà gia giáo, Quỳnh Trâm luôn e dè đúng mực. Vẫn cung cách lễ độ, chăm lo học hành dù “Tình trong như đã, mặt ngoài còn e”. Duy Phước rất quý hai chị em và đặc biệt trong anh hình bóng Quỳnh Trâm mỗi ngày một đậm nét hơn. Anh biết là con tim mình cũng đập những nhịp khác thường nhưng nghĩ rằng mình sẽ phải đi học xa, thêm gia cảnh mình sẽ không xứng với nàng, phần vì mình có người thân đi hoạt động Việt Minh mà ba mẹ nàng là dân kinh doanh (nói theo cách hồi đó là nhà tư sản) thì liệu có  dung hòa. Dù nàng và gia đình nàng không nghĩ vậy!
    Mấy hôm nữa là chàng phải chia tay với hai bé và gia đình Bác Tâm để vào nam học sư phạm.
Hôm nay, bác Tâm bảo:
    – Hết giờ dạy vào thư phòng gặp bác có chút chuyện.
    Duy Phước nghe hồi hộp quá! Không biết chuyện vui hay buồn. Duy Phước bước vào phòng gặp bác Tâm đang ngồi bên khay trà mới pha sẵn, chỉ chiếc ghế đối diện cháu ngồi xuống đây, uống tách trà với bác. Bác nhấp ngụm trà rồi thong thả bảo:
    – Con dạy các em đã ba năm qua, các em tiến bộ lắm! Bác rất tiếc khi phải xa con. Vì chuyện học hành của con và tương lai còn dài phía trước. Nhưng con hãy xem nhà bác như nhà con, sau này mỗi lần về Huế con cứ tới chơi với gia đình. Bác biết con đã nhiệt tâm dạy dỗ các em. Hai bác rất quý! Bác có lời thế này: Con có muốn làm rể nhà bác? Thì một trong hai đứa, Quỳnh Trâm, Bội Trâm, đợi khi hai đứa đậu vào sư phạm, đi dạy. Lúc đó con thích đứa nào bác sẽ gả cho con!
    Duy Phước cảm động quá, rưng rưng không nói nên lời. Anh ra chiều suy nghĩ rồi cung kính trả lời:
    – Con thưa bác, con rất vui khi được bác thương, trước hết con xin cảm ơn tấm chân tình của bác dành cho con, chuyện trăm năm là chuyện hệ trọng bác cho con thêm thời gian. Con phải cố gắng học hành rồi có công việc làm ổn định. Vì con nghĩ mình bây chừ chưa xứng với em Quỳnh Trâm.
    Thế rồi, chàng từ biệt hai em, nắm tay Quỳnh Trâm và dặn dò chuyện học hành kỹ lưỡng. Anh từ biệt gia đình, khăn gói vào nam học sư phạm. Những ngày sống xa Huế, Duy Phước lòng đầy nhung nhớ, nhớ lời hẹn ngắm nụ Quỳnh sẽ nở vào đầu thu năm tới. Phước biết mình đã yêu nhưng lòng đầy mặc cảm hoàn cảnh nghèo khó, mẹ góa con côi. Và một rào cản gia đình bác Tâm lại là tư sản thành thị không thể môn đăng hộ đối.
    Thế rồi sau NĂM 1975, anh về dạy rồi làm hiệu một trường trong thành phố. Còn chị Quỳnh Trâm vào làm trong ban phụ trách đời sống của trường sư phạm.
    Khi tôi nhập học tại trường, có dịp gặp chị – giai nhân một thời của Huế, với nét mặn mà duyên dáng, nét đi dáng đứng chuẩn mực. Mỗi lần tới gặp chị để nhận các nhu yếu phẩm dành cho sinh viên ngoại trú, tôi rất ấn tượng với chị, một vẻ đẹp đài các, phúc hậu, điềm đạm và duyên dáng. Một vẻ đẹp phải nói là của các cô gái Huế xưa mà tôi lấy làm ngưỡng mộ. Tôi rất thích phong cách làm việc của chị lúc nào cũng nhiệt tình, ân cần chu đáo.
    Thế rồi tôi ra trường, xa chị từ đó. Tôi được  điều động đi dạy ở một huyện miền núi cách Huế 100km. Nói sao hết những gian khổ của cuộc sống và công việc nơi rừng heo hút gió, hai bên đường thì lau lách bao phủ. Người dân tộc thiểu số chiếm phần lớn. Đường sá đi lại khó khăn. Ăn uống thiếu thốn. Ra đi, được phát 2 lọ thuốc chống sốt rét và một cái chăn bông, chừng đó thôi là đã hiểu phải đối mặt với những gì. Nên khi có quyết định cho về Huế học tiếp là mừng lắm!
    Sau hai năm giảng dạy nơi đây, tôi được đi học cán bộ quản lý thời gian 1 năm tại Huế. Được về nhà, là vui rồi! Mừng khấp khởi khi được về xuôi chứ cũng chẳng mơ mộng gì làm quản lý. Mặt non choẹt nói ai nghe! Chủ nhiệm mấy đứa học trò thôi mà nhiều khi mệt bở hơi tai với tụi nó rồi (nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò mà). Mình cũng từng trải qua hạng thứ 3 này rồi nên không lạ gì. Về nhà mình còn sà vào lòng mẹ nhõng nhẽo thì quản lý gì. Chỉ là về đi học để gần nhà ăn cơm mẹ nấu thôi. Nghĩ đến đó là vui rồi!
    Khi về nhập học tại trường cán bộ quản lý, gặp lại chị Quỳnh Trâm, chị đã đổi về công tác tại đây, chị em gặp nhau như người thân lâu ngày gặp lại.  Bỗng tôi có quyết định điều động đột xuất tới dạy trường do anh Dương Duy Phước làm hiệu trưởng. Thế là tôi kể với chị là bữa nay mới đổi về dạy một trường gần trung tâm thành phố, sếp của em là anh Dương Duy Phước. Nghe nhắc đến tên anh, ánh mắt chị vui hẳn lên. Thả ánh nhìn vào cõi xa xăm như đưa chị về lại những năm tháng thuở thiếu thời. Chị kể cho tôi nghe mối tình đầu của chị là tình yêu chị dành cho anh Duy Phước, thầy dạy kèm của chị. Chị nói do duyên nợ không thành chứ chị thương anh Phước lắm! Mà chị cũng tin rằng anh cũng thương chị. Nhưng thôi, giờ mỗi người có một ngã rẽ khác nhau, chị giữ lại cho riêng mình những kỷ niệm êm đềm, trong sáng với anh! Thế là đủ, lòng thầm mong anh luôn hạnh phúc! Tôi có cảm giác là chị càng thương quý tôi hơn sau khi biết tôi là lính lác của anh Duy Phước. Chứng tỏ tình cảm chị dành cho anh rất sâu đậm. Nếu tôi là em gái của anh Phước thì chị sẽ thương tôi biết chừng nào! Hai chị em thường ngồi bên nhau những lúc rảnh rỗi tâm sự chuyện đời, chuyện người không biết bao nhiêu là đủ. Tôi cũng kể với sếp tôi về những câu chuyện tâm tình của chị em tôi, anh nhìn xa xăm, như ngược về miền quá khứ. Tôi có cảm giác họ không thể quên nhau, nhưng ai cũng có bổn phận của mình, phải sống cho cả những cuộc đời khác nữa. Nên tất cả đều gửi trọn vào ký ức ngọt ngào một thuở, lòng thương mãi nụ hương quỳnh hương chưa kịp nở.
    Bẵng đi một thời gian, do hoàn cảnh riêng, tôi trôi giạt vào Nam và từ bấy đến giờ không gặp lại chị. Mỗi lần về Huế, tôi cũng dò hỏi nhưng nay chị không làm ở trường cũ nữa, không biết giờ chị ở đâu? Nhưng rõ ràng chị cũng có một chỗ đứng trong lòng tôi đầy mến mộ. Tôi quý cả hai người nên lòng cũng chạnh thương những nụ quỳnh chưa nở.
    Với tôi, vẫn mong đầu thu tới, trong một đêm trăng thanh sẽ có dịp ngắm hoa quỳnh bên tách trà thơm hàn huyên cùng những người tôi trân quý!
 

– Hoàng Thị Bích Hà

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.