Hôm nay,  

TRANG THƠ THỨ BẨY

29/07/202309:17:00(Xem: 2714)
Willem de Kooning
Tranh Willem de Kooning.



NGUYỄN-HÒA-TRƯỚC

 

Một vòng mặt trời,

 

thơ xuôi

 

1

 

Khi mỏ ả quạ vàng vùi sâu dưới gối và đôi mắt quả bàng của ả dần dần đờ đẫn mà cân cấn nước, hãy đơn hành tìm đến cội nguồn không màu của lặng lẽ (nơi đã một lần trần trụi từ đó bước lên) là dòng xiết nuốt đất mở bờ lềnh bềnh củi lũ.

Hãy sống lại, chỉ trong cõi hồng hà hoang hốt đó:

 

cái nhen nhén dị hình cháy khê trong tiết hạ chí ngậm cây kẹo kéo (ngắn dài theo nặng nhẹ mấy đồng xu kẽm) nấu bằng đường thô điểm xuyết sẹo lạc vỏ sò rang chỉ mới độ tám đu dây theo chùm bóng vú mướp mà bọn học trò gầy lỏng khỏng bậm bầm môi vận toàn lực vẫn chỉ khoắng quậy được chưa đến nửa bầu õng thiên địa;

cái thinh thích xuýt xoa chùn thun xoăn xẹo khi mùa thu cõi mộng địa giới lơi lả hội chèo đuôi khoen trăm hồng ngàn tía lụa the thướt lướt vấu cành lá bọn sấu ngà xanh mép đê cắn thử mà tiếc rẻ xem thế vẫn còn chua chun mũi;

cái man mác quắp tôm theo trận đông phong roi quất hả hê những cơn thê thiết sụt sùi rả riết mưa lựu trĩu mái gianh mưa ghềnh mưa suối lội tròng trành trong cái hẻm sặc sụa mưa ngô nhắp mồi cá nắp ao mưa nhện nguệch bản đồ trên lòng giấy không ô vuông lép nhép vài ý là lạ khiến chợt có lúc-hồ-nghi-hoảng-hốt chẳng lẽ mình đang bị rứt xa trần tục nhốn nháo bạn bè một loáng lưu đày vù lên linh-địa-yên-bình-của-thiên-thi?

 

*

 

Sách mực xếp gọn

một ngày nghỉ học quý-hiếm-vàng-mười đi tìm trong đại-vũ-trụ vụ vần trong độ xoãi tay cái-tiểu-biến-tướng-nhưng-khá-quen-hình-như-là-mình lẩn ngẩn thất thường bỏ cả bữa trưa khiến bà đôn đáo chạy tìm cháu yêu đến long đong cả rễ tóc.

 

Vài gió khảy đỡ lưng vịn;

khá nhiều khe nắng xắn tay áo nhung bung tam giác đều bóp eo cô nàng khế tím vị thành niên hay đỏ mặt;

hoa phấn rụng thơm như lát quạt xua nồng dẫn dụ lối vào căn nhà gạch duy nhất trong cái ngõ ngắn cắn hoài chưa lần cấn mí;

duy nhất trong cái xóm hẻo gia cư chùm đụp mộc thổ này nó là căn-nhà-thật-sự-là-nhà có hai dãy kiểng-bát-tiên mai chiếu thủy lúc nào ngang qua ta cũng nhìn thấy (như chúng đã thuê nơi này dài hạn) hình ảnh thật yêu đởi một cặp oanh vàng chíp chíp mớm mỏ cùng nhận+cho sâu trên cành khảnh cao nhất.

 

*

 

Thời gian không chắc có chuyển dịch dầu mốc đồi kia đang lộ dung từng phút một với gió chuyển cung hợp xướng theo biến thái của địa hình mà đôi guốc vông càng dặm dài càng trúc trắc khi cuối cùng bước trên biển đồng bao la gù lưng rạ bặt huyên náo thợ hát đối hẹn hò bỡn cợt và màn trời chớp bóng lồng lộng với phiên chiếu thường trực cách giao hàng lạ lùng của mây.

 

Tìm em nơi nào cho tôi hỏi hộ cậu nắng đang chờ áo cô làng giềng phơi sào lên ngủ ghé?

(nhân nắng hỏi dò, tôi vỡ):

mùa xuân đang mở then chốt cài vào lĩnh không đoàn tụ của cay mắt khói lam chiều.

 

2

 

Những quả những hạt thổ nhưỡng mát mướt có mờ có rạng

đồi mô nương luống cơi lài đất tơi đá mẻ

nhúm hạt vừng gieo giáp mùa dụi mắt.

Bó tranh ngồn ngộn gái non ai hái quên mang về đang phợt phà cạ đất

bó tranh cắt ngọt khô nhanh đợt mồ hôi đã nhạt nhiều mặn chát

lối qua trại chõm cọ thừa ngủ gục

hơi thở các nan hoa đuối mùi sương ngọt như nõn mía

các đóm bay sù sụ mê sảng

buổi trưa vữa ôi tay chạy liềm đầu gật gà cắt nhịp

mỗi mẻ lá là mỗi mảnh chăn an hòa ngon giấc

mặt trời đốt thiêu nhưng mặt trời vẫn gia ân chắn rét

chưa hết bàng hoàng năm rồi hai mùa cuối chẳng đứa nào chịu trắc ẩn nhả cho người chút sinh khí ấm áp.

 

*

           

Đời trải chiếu ngược hướng rừng nai thỏ chạy.

Ảo quang chệnh choạng leo lên bụng nữ thần hoàng hôn làm nhúm nhó nghẹn ngào cái lõi phôi thai khởi hứng của cây-nhân-sinh yêu chiều phóng dật;

nhịp tắc lưỡi đánh vỡ rào rạo áo hào hoa tài tử (óng ánh đến độ phiêu linh) vốn bấy lâu chỉ tồn tại nhờ vào tràng vỗ sứt sẹo xỏ xâu của thuật hóa trang diệu thủ;

cây nêu thơ hơi hắt ngọn phong chướng

rùng mình trả lại tất phấn son dầy dạn.

 

*

 

Ta sẽ không về nếu chưa hôn lên được chiếc lá mầu nhỏ nhất mà dòng suối sắp đến giờ đưa sang;

trong chấm lá:

đời sóng sánh như bát nước rau xanh hút hết dưỡng trấp từ địa mẫu, dễ ly tâm như hạt gạo bé níu vành rổ cạp thưa vách khi vo nước nhúng vào chẳng dám chờ thấm đẫm;

cuộc sống mầm ngoi từ một hai ranh tiểu tiết chập chênh như ngủ thấy được bay lên mỗi quạt tay là cách địa cập thiên.

Căn nhà em xưa ta chỉ nhớ mặt tiền

hai gốc ngọc anh tranh với em vị ngôi gia chủ mời vào khi ta còn chưa gọi cổng.

 

Bay đến em dễ thường trăm tuyến dài không viền mối

tiếp và tiếp hành trình trên chim di chưa cánh oải

mỏ vỏ cam ngậm hoa hồng hoa bạch nhụy tóc bướm

vũ mao biết nói và lông măng thơm ơi là mùi kẹo bột!

 

3

 

Khi vầng dương ngủ

ta sẽ sống, rất tiết kiệm

học cách đếm thật chuẩn chấm hạnh phúc, từng giây

(quyển sổ đời giờ cứ để mở vô tư

giấy sẽ thơm và tơ vàng sẽ nổi)

rượu vị mới và bình lọ sạch tươm tướp

rượu chắt chiu ngụm nhỏ ngậm thật lâu vị sữa nếp đỉnh ngàn thông nhánh cỗi

say lắc lư bảy vòng gom hết quang hợp về nghịch ngợm chanh chao

quả hạt gà mimosa bậc thang cuối dám xù lông mịn

giáp vòng rộng mênh.

 

Cửa vào lai sử phong phanh

lan can có tiếng cựa mành gỗ thưa.

 

07-2023

 

***

 

TRẦN HẠ VI

 

DEJA VU

một thoáng deja vu
chợt nghe lòng thanh tĩnh
phải chăng
nàng đã quá vội vàng?

con sóc bò ngang
đường tình ướp mật vàng óng
lũ kiến vàng nhởn nhơ đánh chén
điều gì chờ nhau
ở cuối con đường?

là yêu là thương
hay giận hờn ghét bỏ
người khinh cửa ngỏ
người nhờn tình cho

đọc hiểu những đắn đo
trong trái tim đàn ông hoang dại
hay cứ yêu một lần hớt hải
nàng cúi mặt cười cười
đến đến rồi lại đi đi...

một thoáng deja vu
cảm xúc
thầm thì...

TƯƠNG TƯ

chúng ta xa nhau
không đếm tháng đếm ngày
không đếm những giấc mơ
giấc mơ hình nắng gắt
đồng hồ cúc cu mười hai tiếng

là nợ là duyên là quyến luyến
em chạy trốn điều gì?
chặn hủy – hủy chặn mà chi
hình ảnh em đã đóng đinh vào tâm khảm

nụ cười nghiêng
mái tóc búi cao
khuôn mặt
nét nhìn
tuồng thân thuộc
tuồng vợ chồng
anh ăn trái tình vật vã
nhớ em

đi tích phân về tất cả
em không đẹp bằng bạn gái anh
chúng ta không có mười mấy năm ân tình
em chỉ như con dao
đâm thẳng vào tim
một nhát
anh chết lịm
đến giờ vẫn chết

đàn ông có đâu vì tình phờ phạc
anh nhớ em
anh nhớ em
anh khắc khoải nhớ em

cô gái mùa thu
chẳng lẽ
chúng ta chỉ có duyên gặp một lần...

***

 

TRẦN YÊN HÒA

 

Vô ngôn (ngữ)

 

Thất tán tình lơ mơ lộng ngữ

Mưa tháng năm quày quả quay về

Đất trời đó không còn linh nữa

Hồn ậm ừ vuột khỏi cơn mê

 

Hồn quay lưng khôn cùng ta níu

Tiếc người xưa tỏ rõ mặt người

Trăng quạnh quẽ như là mê ngủ

Ta mình ên ngất tạnh mù khơi

 

Hồn mười năm trở thành lưu lạc

Vô âm. thanh sắc. quá nao lòng

Mưa. mưa. mưa. động lòng tháng bảy

Xa mặt người trở lại long đong

 

Em! em hỡi. Ta không câu nói

Mắt mù câm dấu chấm than buồn

Vuốt mặt khóc đá đeo nguyệt tận

Những hàm hồ một thuở long đong

 

Trí nhớ lạ. về bên cội phúc

Vô ngôn. hơn nói. cả trăm lần

Em trì hoãn một đời mê mệt

Riêng mình ta. ngôn ngữ lần khân

 

Thôi không nói. Im hơi lặng tiếng

Thất tình. là nghiệp kiếp. riêng chung.

 

Tâm thức

 

Quạnh hiu lớn. quạnh hiu quá đỗi

Ngước nhìn mây. mây trắng lướt qua

Gió thốc tháo gió tuôn xốc nổi

Lời trăm năm. còn chút đậm đà

 

Ta tự nhủ xác thân lưu lạc

Năm mươi năm rời bỏ quê nhà

Ngước mắt chảy trông đâu bản quán

Những mùa xưa. ngày tháng can qua

 

Ta bươn bả giữa đời thất tán

Ta lên cơn hú gọi từng hồi

Những thành quách. những tường rào vỡ

Tung tóe. lòng đau. những đãi bôi

 

Xin nhắn gởi cơn mưa lưu lạc

Xứ mù sương. sống cứ dật dờ

Mây viễn xứ. quây quần. tụ họp

Chìm sâu vào tận mãi cơn mơ

 

Đừng riết róng nha em. cuồng lũ

Hãy bình yên một giấc muộn màng

Yên bình nhé. Bình yên tâm thức

Vẽ vời chi một cõi hoang mang

 

Em bất tận

 

Có phải em ngồi hong tóc bên sông

Buổi chiều sau lưng đặc quánh

Tóc em xõa bờ vai óng ả

Gió thổi vào lồng lộng giấc mơ ngông

Dòng sông, em còn nhớ hay quên?

Có bến Chương Dương có nhà hàng đặc sản

Anh và em nhiều lần đến đó

Sao nay chỉ mình ên

 

Có phải em bận chiếc áo dài màu vàng ngày ấy

Ơi màu vàng một thuở anh yêu

Áo vàng giống nam phương

hoàng hậu

Trong giấc mơ anh. em cũng là hoàng hậu

Em đi nghiêng bóng nhỏ đường chiều

 

Có phải là em đã để lại trong anh khoảng trống

Không có gì lấp cạn

Biển cạn. sông cạn. suối cạn.

Nhưng em thì không

Máu chảy trong anh. em bất tận

 

Bất tận em.

Bất tận thời gian một thuở

Cuộc tình khuya. tình sớm. tình chiều

Kêu hoài hủy. tiếng ca giọng vỡ

Em à em. một tiếng thương yêu

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.