Hôm nay,  

Trong « Vòng tay học trò »

8/26/202309:38:00(View: 2573)
Truyện

VN poor neighbor

Buổi sáng ấy, ngủ dậy, còn lơ mơ, tôi nghe văng vẳng tiếng điện thoại reo, tôi chạy lẹ chân xuống nhấc ống nghe, đầu dây bên kia có tiếng thỏ thẻ nhẹ nhẹ:
    « Thưa cô, em không biết đây có phải nhà cô, cô An, không ? Lâu quá không có tin… cô và gia đình vẫn bằng an?... »
    Không kịp trả lời, thì tiếng nói im tôi gõ gõ, đường dây trục trặc hay bị cắt. Tôi ấn lui tìm số người vừa kêu, nhưng rất lờ mờ nhìn không rõ, ống nghe rè rè, không có tiếng nói nữa, tôi đoán, có lẽ là một em học trò ngày xưa, ở xa, gọi điện thoại viễn liên, đường dây ngày mưa bão tơi bời, không bén nhạy, làm chúng tôi lạc nhau.
    Tự nhiên, rửa mặt xong, ngồi ăn sáng, tôi bồi hồi không biết em nào vừa gọi, rồi suy nghĩ vẩn vơ, tôi lại quay về  gợi nhớ trường, lớp, học trò xưa của tôi, đó là thời gian đầu đời từ lúc tuổi còn thanh xuân. Thời gian trôi đi mau thật mau đến không ngờ, đã hơn một nửa thế kỷ, mà lạ thiệt, học trò chưa quên thầy, thầy cũng không thể nào quên được trò, thậm chí tới nhớ cả họ của các em, như Lê Văn Tốt, Vương Văn Cho, Cao Đại Hoàng Tiên, Khưu Bình, Hoàng Văn Đỗ…
    May mắn lúc ra khỏi Việt Nam tôi mang theo được một số hình ảnh chụp chung ở các lớp học, lâu lâu lại mang ra ngắm nghía. Những chục năm còn chạy theo cơm áo gạo tiền thì bỏ quên đâu đó. Nay nghỉ hưu, có rộng rãi thời giờ, lấy lại những tấm ảnh kỷ niệm xa xưa ra ngắm nghía và hồi tưởng.
    Khi tôi đến, ngày đó, lần đầu tôi đến nhận trường nhận lớp, các em vây quanh chào đón cô thật vui thật cảm động. Cũng có lẽ vì lâu ngày, lớp trống, thời khóa biểu lộn xộn, vì các thầy thay nhau đi thụ huấn 9 tuần quân sự, nay, cô có về, chắc ăn hơn. Tôi thay anh hiệu trưởng cũ, tổ chức lại cho có trật tự và với thời khóa biểu linh động hơn. Riêng lớp tôi làm chủ nhiệm, tôi xếp đặt lại sổ sách, sổ điểm, sổ gọi tên và làm bản đồ lớp theo trật tự nhỏ ngồi bàn trước, lớn ngồi phía sau, ở quê có nhiều em rất cao lớn mà nhỏ tuổi, có em nhỏ tuổi mà muốn cao vượt cả thầy cô. Đa phần các em học trò ở quê được đi học là sung sướng hạnh phúc, khá nhiều em phải giúp gia đình làm ruộng rẫy kiếm ăn, chúng tôi đã có lần có ý muốn mở lớp bổ túc cho các em bận làm ăn suốt ngày vào buổi tối, nhưng ông hội trưởng hội phụ huynh biểu là không nên vì vấn đề an ninh. Phần lớn các em đều chăm học, tuy có lúc hiểu chậm nhưng đều siêng năng, ngoan và thiệt thà.
    Trường chúng tôi, thuộc Nhơn Trạch, quận lỵ của tỉnh Biên Hòa, nói vậy mà đường vòng vèo xa Biên Hòa và gần Saïgon hơn. Các em tôi ảnh hưởng đô thị, lanh lợi và đa phần con nhà khá giả. Một số đến phân nửa cư ngụ phía bên kia quận cũng gọn gàng tươm tất. Ông trưởng ty cảnh sát và ông chủ tịch hội phụ huynh luôn nhắc chừng chúng tôi phải để ý thái độ và ngôn ngữ của các em vùng xa sau quận, nhưng thấy cũng không có gì bất cập hay quá đáng. Nói chung, ở hai bên, địa thế, ảnh hưởng có tí chút khác nhau vì hoàn cảnh xô bồ của chiến tranh rình rập, nhưng học trò chúng tôi ở vùng quê mà không quê, có đứa cũng hóm hỉnh và ý tứ lắm.
    Ai như một anh bạn đồng khoa của tôi, về quê ở Tuy Hòa dậy học, ổng có lần khoe tôi một tấm hình thầy trò ổng, thầy thì gầy nhom, tóc tai xơ xác, học trò thì có em đi đất nữa trời ạ. Tôi xem và cười mím chi, thì ổng phát cho một câu: « Cô giáo như cô thế này thì tệ quá! » Hồi tôi mới ra nghề, tuổi ngoài đôi mươi, non dạ suy nghĩ, bộc trực, thiệt đúng là tôi tệ. Tệ hơn nữa là khi anh hiệu trưởng cũ về Nhơn Trạch thăm trường, anh bất ngờ nói: « Tôi sắp xong 9 tuần thụ huấn quân sự rồi, nay mai tôi sẽ về đây. » Tôi đâu kém cạnh, cười và nói: « Anh nên đi chọn một nhiệm sở khác đi, nơi này, tôi đã có sự vụ lệnh bổ nhiệm hiệu trưởng rồi, vả lại mỗi thứ bẩy tôi đều về Saïgon theo học lớp quản trị học đường trong thời chiến. Anh yên tâm về đơn vị đi ! » Tôi là rất hung hăng.
    Dù hung hăng vậy thôi, mặt khác tôi yêu quý trường lớp và học trò tôi lắm. Khi một ông sỹ quan Mãng Xà Vương (Thái Lan) đến tán tỉnh, tôi liền tán tỉnh lại ông đi lấy gạch cát và đá tổ ong ở Biên Hòa hay đâu đó làm giùm chúng tôi mấy cái hầm tránh đạn pháo kích bất tử cho học trò, bọc quanh trường, rất chu đáo. Xong hầm hố, ổng đề nghị làm thêm đường đi cho tốt, trời mưa, thầy trò không bị bùn đất dính lem nhem áo quần. Chừng đó thì tôi phải lễ phép từ chối và xin mời ông lên gặp ông quận và ông phó vì ở vòng ngoài nhà trường, không phải là phần đất của chúng tôi. Việc đó tự nhiên thôi, thầy nào chẳng yêu quý trò. Không yêu quý sao dậy dỗ nổi.
    Quay về nội dung, tôi yêu cầu các em bầu một trưởng lớp có uy tín để trò đó có trách nhiệm giữ sổ điểm, nhất là sổ điểm danh, sổ điểm danh rất ư là quan trọng vì trưởng lớp ở trong vùng xôi đậu. Các em tự bầu mãi cũng không xong, cuối cùng thì chúng tôi quyền chỉ định. Tôi quan sát, tôi dòm mãi, sau tôi quyết định chọn em Nguyễn Văn Bảnh, sinh quán tại địa phương. Tôi không gặp sự eo sèo nào vì trò Bảnh xứng đáng lắm, Bảnh nó bảnh thật, về vóc dáng, cao to khỏe, về đạo đức, luôn tốt tánh an toàn và sẵn sàng giúp các bạn, Bảnh học giỏi, áo quần tươm tất, luôn đi một cái xe Honda 90 sạch chùi láng, vô trường, chạy xe chậm và kín đáo không làm ồn. Em còn rất chu đáo và nghiêm chỉnh khi điều khiển các bạn liên lớp mỗi buổi chào cờ.
    Khi nào cũng vậy, đúng 8 giờ sáng thứ hai, Bảnh đứng nghiêm bên cột cờ chờ các bạn vô hàng ngũ, khi đã hết ồn ào, xong chỉnh sửa, Bảnh hô to « Nghiêm » và hơi ngửng mặt lên cao, nhìn lá cờ vàng ba sọc đỏ, tươi màu, phất phới trên kia, rồi quốc ca tiếp theo.
    Mọi sự cứ suôn sẻ như thế sau một tam cá nguyệt trôi đi. Bỗng một hôm, sau giờ chơi, Bảnh vô văn phòng, vòng tay lặng lẽ nói:
    « Thưa cô, em xin từ chức trưởng lớp và luôn trưởng tràng… »
    Tôi hỏi tại sao.
    « Em thấy em làm không nổi. » 
    « Tại sao không nổi, cô thấy em làm rất tốt, nếu có gì khúc mắc cho cô hay. »
    « Thưa không. »
    « Có gì phiền em, mà em làm không nổi? »
    Tôi không vặn vẹo trước vẻ chất phác như đếm của một học sinh ngoan, gương mẫu. Sau lớp chiều, tôi gọi một nữ sinh lại hỏi cho ra lẽ. Ban đầu Hoa nói Hoa cũng không biết tại sao Bảnh thôi việc. Tôi nghi ngờ, hỏi Hoa cho thiệt rõ gia cảnh Bảnh có phần nào liên hệ với phía sau quận, nơi Việt Cộng hay đi đi về về không. Tới đó thì Hoa phải nghiêm nghị thú thiệt: « Không, cô. Gia đình ảnh không liên hệ chi với bên đó, anh đó có hai người anh đi Thủ Đức… Ảnh từ chối chỉ là tại ảnh tự ái và mắc cỡ. »
    « Mắc cở? »
    Hoa cười rồi kể rõ:
    « Anh Bảnh mắc cỡ vì mỗi lần thượng cờ, ảnh hô nghiêm, xong ảnh hất cái mặt ảnh lên cao, là ở dưới mấy đứa rắn mắt nó cười hích hích, làm ảnh đỏ mặt, ảnh quê quê. »
    « Có vậy thôi ư, thôi được, cô đồng ý cho Bảnh nghỉ hô chào cờ, nhưng Bảnh phải kiếm cho cô một trò thay thế, tư cách, đạo đức và lý lịch y như Bảnh. »
    Bảnh đồng ý và giới thiệu Hoàng Văn Thọ điều khiển chào cờ, Thọ rút kinh nghiệm Bảnh, nhẹ nhàng và thận trọng hơn lúc điều khiển chào cờ, lá cờ tươi sáng vẫn phất phới tung bay dưới nền trời xanh lơ.
    Và tình thân giữa cô trò tôi vẫn ngày thêm thấm đậm vui vẻ.
    Tôi thương quý các em, một chút xót xa nữa, vì các em lớn lên giữa chiến tranh, một cuộc chiến điêu linh, và các em ở ngay vùng chiến địa, trường trung tiểu học, tọa lạc ngay bên cạnh quận. Hướng về phía Saïgon là xã Phú Thạnh, có một con đường duy nhứt đi qua yếu khu kho đạn, qua cổng yếu khu là chùa Pháp Hoa, kéo dài tới xã Đại Phước, với chợ Đại Phước khá đông vui, nối dài nữa là đi tới phà Cát Lái, tất cả vùng quận về bến phà tới Saïgon tương đối khá an ninh, có quận, có yếu khu, có quân đội Đại Hàn, Thái Lan canh gác, yểm trợ cả nơi vòng đai bìa rừng cao su. Nhưng đối diện bên kia quận, đường về xóm Hố, Hố Bò, Phú Hội, Phước Thiền là vùng bất an, là điểm nhắm từ chiến khu D.
    Trái với bên kia, chỉ là dân buôn bán và đi làm thợ, phía bên này lại là khu trồng tỉa tươi tốt hoa mầu và chăn nuôi gia súc. Từ khu bất an, có khá nhiều các em học sinh đến trường học quận. Từ đó, nên phần lớn, mỗi đứa có một cái xe Honda phóng vù vù, vui sướng, ngây thơ, có lúc quên cả hiểm nguy rình rập và bất chợt. Tuy là vùng hiểm nguy nhưng bên Phú Hội xóm Hố lại trù phú, hoa mầu, cây trái, xanh tươi và cảnh tươi mát thiên nhiên đãi ngộ lạ lùng, những vườn cây ăn trái sum suê, thoáng mát và thơm ngát mùi nọc tiêu, mùi bưởi, mùi hoa cam chạy dài thoang thoảng bay theo gió.
    Vì đất trù phú, dân cư sinh sống trồng tỉa, nên Việt Cộng hay về tuyên truyền và thu thuế, VC cũng đắp mô, phục kích cản đường ra lộ, lối ra Tiểu Tòng Lâm và Đại Tòng Lâm. Quân đội đồng minh phối hợp với địa phương quân và lính nhẩy dù bên ta luôn luôn hành quân càn quét, song, VC vẫn lẻn về bám trụ và tuyên truyền, cả chiêu mộ và dọa dẫm.
    Đoạn từ Phước Thiền tới bên hông quận, khu nhà mồ là khúc nguy hiểm, ngặt nghèo. Nhất là đoạn đường ngắn từ nhà mồ đến xóm Hố. Gọi là nhà mồ, nhưng khi xưa người Pháp cho kiến trúc nguy nga đồ sộ kiểu Âu Châu, khá cao và kiên cố, nhà lồng đẹp và uy nghi. Ở ngay điểm quẹo của khúc quanh đi xuống từ nhà mồ, từ cái điểm quẹo thơ mộng đó, thì xe dân sự hay xe quân sự, xe bốn bánh, xe hai bánh, hay cả xe lôi Lambretta đều phải giảm tốc độ để theo đường vòng xuống thấp từ từ và ở chỗ đó, tài xế và xe là điểm ngắm và bia bắn của tụi VC mò về ẩn nấp trong rừng cam rậm rạp. Đường ngắn, đạn xẹt, nhanh, không một cái lá rơi đến giữa đỉnh đầu ruồi, lại một người oan mạng. Tội nghiệp những người lính địa phương quân và cảnh sát quận luôn thiệt thân ở đó.
    Sát lối xuống thoai thoải râm mát và sang trọng của xóm Hố là một nhà thờ uy nghi với tượng đức mẹ Maria dang tay cứu rỗi muôn đời, cạnh đó, có một trường tiểu học khang trang hằng ngày vẫn ê a tiếng trẻ con đọc vần. Sau nhà thờ và trường tiểu học, trái cây như mít, ổi, sầu riêng Long Thành và xoài cát chín vàng rực rỡ. Mùa hè, đi dạo nơi đây, cây lá rì rào, ve sầu ru hát ve ve, lối đi êm nhẹ, có nắng vàng Trịnh Công Sơn lạc lối đu đưa, kỳ lạ và rất lạ kỳ, thiên đàng êm ái, thanh bình yên ắng là đây.
    Rồi chiến tranh đổ máu, lửa cháy cũng là đây. Cả hai rình rập và tấn công nhau bất chấp lúc nào. Tên VC núp trên cao vừa bắn sẻ một người, chết, lăn bộp xuống đất nhẹ nhàng như chiếc lá rụng, hắn tụt xuống, còn lẹ hơn cái xác chết vừa rơi, nhẹ lủi vô vườn cây, thì có trời mà tìm ra hắn. Hắn là ai, hắn là mặt trận, hắn là du kích nằm vùng, hắn có thể là một người bản địa, mai lại ra tỉa tiêu, tưới chuối.
    Ôi tội nghiệp cho người lính Việt Nam Cộng Hòa, với bộ sắc phục trên mình, họ là những cái bia bắn không bao giờ sai hẹn! Cuộc chiến này chui lủi, hèn hạ và bất công. Một cuộc chiến uất nghẹn ngàn năm, không thể nào nguôi ngoai nổi. Nó còn đó, dấu ấn còn đó, âm ỉ âm u y như tiếng ve sầu rền rỉ thiên thu!
    Dù bao gian nan vây bủa, ờ thì chúng tôi vẫn tiếp tục con đường đi,  trò vẫn đến trường thầy vẫn đến lớp. Rồi cũng có tin vui giữa mùa loạn lạc. Đó là có một cái đám cưới của học trò được dự trù. Ở nhà quê, con gái con trai  lấy chồng lấy vợ sớm, lớp 4A có một em nữ sinh tên Bích, ở trên Phú Hội, báo tin em sắp lập gia đình, có ý mời một số đông bạn cùng lớp. Đúng lẽ ra khi một em học sinh đã lập gia đình thì không được phép học tiếp. Nhưng phụ huynh em Bích lại đến trường năn nỉ cho em được tiếp tục đi học lại sau đó.
    Tôi cả nể, mang việc ra hội ý toàn ban giáo sư, họ rộng lượng đồng ý, viện lẽ ở quê có người ham học là quý, mắc gì từ chối. Vậy là cả lớp, gần như cả trường được mời dự tiệc. Có lẽ nhà đám cưới, hai bên giàu có, khá giả. Giữa vùng chiến địa, trận chiến giằng co, ngày như ngủ, đêm như thức, vậy mà có một đám cưới, khiến ai ai cũng vui vui lây. Đám cưới của người mà vui như đám cưới của mình. Cái tin đám cưới từ trường lan ra, ríu rít như một cánh hoa mắc cỡ tim tím rung rinh theo gió nở ra bên chiến hào. Ngày đám cưới, Bích dự trù là một tuần lễ trước tết, nhằm ngày tiễn ông bà táo mùa xuân năm 1973. Hơi khít khao nhưng sau đó là kỳ nghỉ cuối năm cho học trò. Gia đình đám cưới vui mừng báo là đã xem ngày tốt đón khách và đưa dâu về ngoài Long Thành.
    Mấy trò gái lớp lớn rủ nhau đi Saïgon sắm tết, luôn thể sắm bộ dạng áo quần nhiều màu đẹp đi đám cưới, đi đưa dâu. Bàn bạc nói cười nhiều, hớn hở, có lúc bàn tán đám cưới mà ồn ào, đám cưới hay đám giặc?
    Ba hôm trước ngày khởi hành lên Phú Hội, trò Bảnh đã êm đềm và trịnh trọng đề nghị đến đón và chở cô đi ăn cưới, xong, chở cô về luôn thể, vì tiện đường, xe tốt và êm. Thêm nữa, em biết nhiều lối tắt, ngang dọc, đi rất lẹ, về rất mau. Tôi nói cám ơn, tôi cũng có xe Honda dame 50, « Để cô chạy dợt xe, đua xe với với mấy em nữ sinh cho vui, chẳng mấy khi! » « Thôi cô, để em đưa cô đi và đưa cô về, đường xa, xấu, nhiều đoạn vắng, nhiều khúc quanh gấp, mặt đường quê, đầy đá cục, đá dăm… Cứ để em đưa cô đi và về cho an toàn. »
    Cô giáo cảm động và đồng ý với em học trò ân cần tử tế!
    Sáng chúa nhật y hẹn, cô trò áo quần chỉnh tề, ung dung lên đường. Xe chạy bon bon, có nhiều em vù vù qua mặt chúng tôi, và chúng tôi cũng qua mặt nhiều em khác, đứa nào cũng diện đồ chiến, ôm theo quà mừng cột ruban bay phất phới, chào gọi nhau ơi ới. Con đường đất đỏ viền cỏ xanh non, hoa dại viền mép đường thoang thoảng mùa xuân chúm chím vờn gió se se lạnh. Đi qua quận, gần tới Phú Hội, cách chừng ba cây số, cái xe cáu cạnh của trò Bảnh cán nhằm cục đá dăm, ho khan, khạc khạc, Bảnh cẩn thận thắng xe, dắt vô lề đường. May nơi đó có cái quán gió, lợp lá gồi, bán nước mía lau. Xe em chắc nghẹt xăng, cô vô quán uống nước, em coi sửa, chút xíu, mình đi tiếp tục. Nói xong, Bảnh từ từ mở đồ nghề, gõ gõ đập đập, lau lau, chùi chùi mấy con ốc rồi vặn lại, rồi đạp máy, nhưng xe không nổ. Bảnh lại tháo mấy con ốc ra, lại cạo cạo, sửa sửa, gõ, đập, lại thử đạp máy, xe vẫn không nổ. Dọc đường cùng đi, có 3, 4 tốp bạn đồng hành ngừng lại, ân cần hỏi thăm.
    « Bộ xe anh Bảnh kiếm chuyện hả? »
    « Ngộ không? Xe anh Bảnh tốt lắm mà, nay cũng nằm vạ hả? Thôi để tụi này chở cô đi cho. Ba, bốn lần các bạn ngừng, an ủi và đề nghị chở cô đi cho kịp giờ. Nhưng Bảnh phản đối, nói xe sắp chạy lại  được rồi, chỉ ngộp xăng chút xíu. Bảnh thế nào cũng đưa cô tới được mà. »
    Để cho trò Bảnh đỡ lúng túng, sốt ruột, cô giáo bèn ghé vô quán nước nói chuyện vu vơ với bà chủ, để qua thời giờ, hỏi thăm bà và được biết bà ở Bắc kỳ, vô đây từ thời người Pháp mộ phu vô Chơn Thành, Hớn Quảng, Thủ Dầu Một để làm đồn điền cao su. Rồi chồng bà mất, bà trôi giạt về đây mua đất, mở rộng trại, đào hào, đào rạch, be bờ mương thả cá, nuôi tôm… Cuộc sống của bà an bình và êm ả quá, cô giáo nghe và xem cá bơi thong dong mà quên cả sốt ruột chờ Bảnh sửa xe.
    Một lúc lâu sau, có lẽ tụi xe Honda đi ăn cưới của đám bạn đã qua mặt hết rồi, không còn nghe tiếng gọi nhau ơi ới ngoài lộ nữa. Cô giáo ra kêu Bảnh vô nghỉ tay uống nước mía lau và ăn bánh ú, có cả bánh dầy nhận đậu mà bà lão chủ quán nói theo tiếng Bắc gọi là bánh lư!
    « Em xin lỗi, em đã làm lỡ việc của cô, em cũng có lỗi với chị Hoa nhiều lắm… »
    Bảnh đang lí nhí, lúng túng nói và nói… thì, ầm ầm oàng oàng… mấy tiếng nổ long trời từ đâu vọng lại làm rung chuyển cả một rừng cây, cát bụi tung mù mịt, đá từ đâu văng tới rào rào, bà lão chủ quán kéo vội cô giáo nằm sấp xuống gần phản gỗ dầy, cùng lúc bà xô Bảnh vào khuất sau một bờ tường.
    Cô giáo sợ thất đảm hồn vía lên mây, « Chuyện gì vậy hả bác? » « Ồ, chắc mấy ông Việt Cộng về khủng bố đâu đây, coi chừng là họ đánh đám cưới là… chết hết… trời ơi là trời. »
    Bà quen sợ mà bà còn thất đảm, cô trò tôi thì chết lặng người. Bảnh ngồi im, mặt xám đen, trông thất thần như tượng gỗ. Cô giáo thì sợ như trời vừa sập, cô cắn môi mạnh cho có cảm giác đau, cô nghĩ là cô đang ở trong một giấc mơ hãi hùng và mong là giấc mơ đó sẽ tan đi nếu cô còn thức giấc!
    Ngoài đường lộ, có năm xe nhà binh từ quận chạy vùn vụt lên xóm Hố. Rồi ba xe cứu thương từ yếu khu đi theo bén gót, thêm một đoàn xe từ chi khu y tế phóng theo.
    « Nhưng mà… họ đã chết cả rồi, họ chết rồi… »  Bảnh lẩm bẩm, đưa tay lau mắt.
    « Em, em có nghe ngóng được tin gì trước đây không? »
    « Không, thưa cô, em làm sao biết tin gì, nếu mà em biết, em đã ngăn cản các bạn đừng đi.»
    Cô giáo vẫn choáng váng.
    « Tại sao tụi nó chết lẹ vậy, chết thật lạ lùng. Cái thứ đồ Việt Cộng ác ôn! Em, thì thiệt là em không muốn cô tới chỗ nguy hiểm, bị cô còn trường lớp và nhứt là còn em bé Mai đợi cô ở nhà!»
 

-- Chúc Thanh

(Hè 2023)

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.