Hôm nay,  

Tết Trung Thu rước đèn đi chơi...

26/09/202309:10:00(Xem: 4128)
Tùy bút

tet-trung-thu-2_1686592640
Bất chợt một đêm, vô tình mở một kênh YouTube, lắng nghe tiếng trống múa lân rộn ràng vang lên cùng giọng hát hồn nhiên trong trẻo, gợi nhớ một thời xa lơ, xa lắc: “Tết trung thu rước đèn đi chơi/ Em rước đèn đi khắp phố phường/ Lòng vui sướng với đèn trong tay/ Em múa ca trong ánh trăng rằm/ Đèn ông sao với đèn cá chép/ Đèn thiên nga với đèn bướm bướm/ Em rước đèn này đến cung trăng...” Lại nhìn ra ngoài cửa sổ, vầng trăng thượng tuần nhô cao, như một cái dấu “bấm móng tay” treo lơ lửng. Lại ngó vào tờ lịch bàn ngay chỗ làm việc. Ôi đã là tháng tám âm lịch rồi, nhưng chưa phải 14, 15...
    Lại suy nghĩ vẩn vơ, ở cái thành phố ngụ cư, cách xa quê nhà nửa vòng trái đất. Tết Trung Thu, trẻ em có cầm đèn, rồng rắn đi khắp nơi, vui chơi như trẻ em đất Việt? Chắc chắn là không! Mà ơ, cũng lạ... đã ở vào cái tuổi “xưa nay hiếm” rồi, sao mình vẫn còn quan tâm, suy nghĩ đến “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi...” Phải chăng là mình đã lẩm cẩm?
    Không lẩm cẩm mà trí nhớ lại buộc phải “truy nguyên” nguồn gốc bài hát, với tên tuổi tác giả, mà biết bao thế hệ, giờ đã trở thành ông bà nội, ngoại, hay người “thiên cổ” mà thuở nào tuổi nhỏ, cứ đợi đến rằm tháng tám âm lịch, tức Tết Trung Thu, lại cùng nhau, kết bè, kết nhóm, nghêu ngao hát bài “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi” mà có đứa khi đó còn ngỗ nghịch, láu cá sửa lời là “Tết Trung Thu... đốt nhà đi chơi”, để bị cha mẹ rầy rà cho một trận!
    Bài hát có tên là “Rước đèn tháng tám” của nhạc sĩ Đức Quỳnh, sáng tác năm 1950, tức là cách nay cũng đã tròm trèm 73 năm, là một trong những bài hát thiếu nhi về Trung Thu hay nhất vẫn luôn được hát cho đến ngày hôm nay. Thuở đó, nhạc sĩ Đức Quỳnh đã có riêng một nhà xuất bản tên là Vân Thanh, và ông cũng là một cộng tác viên về âm nhạc cho Đài phát thanh Pháp Á ở Sài Gòn. Khi sáng tác bài hát “Rước đèn tháng tám”, không hiểu sao ông lại lấy tên là Vân Thanh, vì vậy, sau này có người nhầm lẫn đó là tác phẩm của nhạc sĩ “Văn Thanh”, một nhạc sĩ hiện nay còn sống ở đường Trần Huy Liệu, Phú Nhuận.
    Nhạc sĩ Vân Thanh (hay Đức Quỳnh), tên thật là Nguyễn Đức Quỳnh, sinh năm 1922 tại Hà Nội, bắt đầu sáng tác nhạc từ năm 1947, với bài hát đầu tay là “Nhớ ai”. Ông mất năm 1994 tại Sài Gòn. Sáng tác âm nhạc của ông để lại không nhiều, khoảng chừng 20 ca khúc, tiêu biểu như: Rước Đèn Tháng 8, Thoi Tơ, Xuân Mới, Trả Lại Anh, Hát Đi Em, Ba Giờ Khuya, Nhớ Quê, Hỏi Em, Tiếng Chuông Chiều, Người Kỹ Nữ Với Cung Đàn… Ngoài ra ông còn làm chủ một phòng trà mang tên Đức Quỳnh tại góc đường Cao Thắng trước năm 1975.
    Trở lại ca khúc “Rước đèn tháng tám”, tuy là một bài hát quen thuộc, nổi tiếng nhất trong các ca khúc thiếu nhi về Trung Thu thời bấy giờ như bài “Thằng Cuội” của nhạc sĩ Lê Thương (sáng tác năm 1946), bài “Ông trăng xuống chơi” của nhạc sĩ Phạm Duy (sáng tác năm 1973), song lại ít người biết đến tác giả? Cái tên Vân Thanh hay Đức Quỳnh xem vẫn còn xa lạ trong lòng những người mê âm nhạc lúc đó. Có lẽ vì Đức Quỳnh sáng tác ít và có cuộc sống im lặng, trước những “đua chen” gay gắt của các trào lưu âm nhạc thời đó chăng, và báo chí cũng ít đề cập đến?

Nhạc sĩ Đức Quỳnh
Nhạc sĩ Đức Quỳnh.
    Còn nhớ, những năm xửa xưa, khi còn ở lứa tuổi nhi đồng và cả lứa tuổi thiếu niên, thanh niên, vẫn luôn nao nức rạo rực mỗi khi tháng tám về, cùng với nhịp trống lân, vang lên ở các con đường, góc phố, lũ học trò nhí chúng tôi đã được các thầy, cô thông báo chuẩn bị cho việc làm lồng đèn “dự thi” vào đêm rằm sắp tới. Đứa có tiền dành dụm, thì đập ống heo lấy tiền mua tre, trúc, giấy màu bóng kiếng làm lồng đèn. Đứa nhịn ăn, góp tiền chung, hùn để mua hay làm lồng đèn, tệ nhất cũng là cái lồng đèn xếp, hay lồng đèn ngôi sao, để có cái xách đi trong đêm rước đèn. Có đứa không đủ tiền mua giấy màu, lại ku-ky một mình, cũng ráng tìm giấy báo, hoặc xé giấy tập, dán cái lồng đèn... bánh ú để “vui với người ta”. Tiếp đó là tổ chức văn nghệ, hát ca, múa với hoạt cảnh rước đèn mà bài hát đồng ca chủ yếu là bài hát “Rước đèn tháng tám”, thường các bạn lớp lớn thì hát các bài như “Thằng Cuội” với những ca từ chân chất, nhưng cũng đầy mơ mộng như “Ánh trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng Cuội già, ôm một giấc mơ”, hay “bản lĩnh” hơn thì với bài hát theo kiểu đồng dao, vui nhộn, đầy những hình ảnh “cho, nhận” của Phạm Duy, như “Ông trăng xuống chơi học trò, thì học trò cho bút. Ông trăng xuống chơi ông Bụt, thì ông Bụt cho quà...” Song có lẽ, cái lung linh, giản dị đầy màu sắc của những ca từ “Đèn xanh lơ với đèn tím tím/ Đèn xanh xanh với đèn trắng trắng/ Trông ánh đèn rực rỡ muôn màu...” mới thực sự hấp dẫn đám con nít, lẫn choai choai, mới lớn, rồng rắn nhau rước đèn với đủ trò chơi tinh nghịch của tuổi thơ, vẫn luôn hằn sâu và nhớ mãi. Đó là chen lấn, chia quà, đến rách cả chiếc áo mẹ mới mua. Hay làm cháy cái lồng đèn con bướm, cưng như trứng mỏng, thậm chí làm khét cả mái tóc cô bạn nhỏ, làm rưng rưng những ngấn lệ trên đôi mắt đen, to tròn, dỗ dành mãi không thôi... thút thít...
    Rằm tháng tám, một thời, ai không nhớ những ngọn đèn, ngọn nến lung linh trong chiếc lồng đèn, con thỏ, ngôi sao và cả lung linh trong trái tim mình bên cạnh những người bạn thời niên thiếu? Và nhớ cả những câu hát “Tết Trung Thu rước đèn đi chơi” của nhạc sĩ tài hoa Đức Quỳnh của một thời niên thiếu.

Trần Hoàng Vy



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.