Hôm nay,  

Tiếng hát lau sậy

08/10/202309:43:00(Xem: 2677)
Truyện

Screenshot 2023-10-08 095555

Ngày gia đình tôi dọn về xóm bãi lau này, cả xóm có đâu chừng dăm nhà, quấn túm vào nhau mà sống, gắn quện như thân lau, rách nát như thân lau mà cũng dai dẳng như thân lau, bố tôi ví von như vậy. Để lên đến bờ đường, cả mấy nhà phải rúc qua một rừng lau rậm, giẫm chân trên những ngọn lau, và tạo thành con đường mòn, đi xuyên qua những thân lau, mỗi khi qua đó không ai nhìn thấy ai, nếu như không chạm mặt, bởi thân lau quá cao che khuất cả bóng người.
     Nhà tôi gần nhà chị, mỗi đêm tôi ngồi chong đèn học bài, ngọn đèn dầu le lói, xuyên qua vách của căn chòi lợp bằng lá lau, xuyên một thứ ánh sáng nhỏ giọt ra ngoài hiên vắng, hắt những thứ mờ ảo của đốm sáng ra ngoài bờ sông, lúc ấy chao ôi thấy buồn, một nỗi buồn không cất lên lời, nó xâm nhập lòng người cái nỗi thê lương và ảo não lắm, tôi lại nghe thấy tiếng hát từ căn chòi cách nhà tôi một bãi lau chừng hơn trăm mét:
 
    Lòng người hỏi được như sông
    Sông bao nhiêu nước mà chồng em xa…
 
Là chị, tiếng hát của chị cất lên vào mỗi đêm. Phải khi tất cả tiếng người đã im ắng, tiếng lách cách của bát đũa mỗi nhà không còn, tiếng chách chách của con chó gày nơi bãi hoang cũng không buồn sủa, chỉ còn tiếng nước sông chảy qua đoạn xiết rì rì, và tiếng côn trùng ếch nhái mở hội thao thiết, lúc đó chị mới cất lên tiếng hát tha thiết và não nề, bài nào cũng buồn, bài nào cũng cô đơn, bài nào cũng gợi sự xa vắng và chia ly thê thiết lạ. Có lần bố tôi trầm ngâm, cái con mẹ, tiếng hát giết cả cuộc đời.
    Sao bố nói vậy, tôi hỏi bằng sự ngô nghê của thằng trai mười ba, bố bảo, thì hát hay quá. Hát hay vướng gì vào sự chết chóc. Thì buồn đến chết mất thôi, mày chưa đủ lớn để thấy buồn. Khi tôi đã đủ lớn, ngày quần quật theo mẹ đi làm, đêm quần quật cùng bố đơm đó, đơm cá, bẫy chim, có khi xuyên sáng, tôi mới hiểu hết nỗi cô đơn của con người, nghiệm lại lời bố, tôi thấy tiếng hát quả có thể buồn chết được.
      Mà sao chị chỉ chọn bài buồn để hát, để hoà nhịp với giun dế, với ếch nhái, với tiếng chảy từ bờ sông hay tiếng rì rào của lau sậy, mỗi lần có con gió cô đơn thổi qua. Nhưng nó đã thổi vào hồn tôi một cơn dài xao xiết lạ.
 
    Thương gì một cõi nhân gian
    Người đi chưa đến kẻ mê man chờ
    Ai ơi cứ thể hững hờ
    Vô thường trôi mãi bến bờ mà xa…
 
Tôi không biết những lời hát ai sáng tác hay chị nghĩ ra cho phù hợp với nỗi niềm của chị. Tiếng hát trong và tròn, lời ca sáng và rõ, vành vạnh như vầng trăng thu, soi đến cả lớp li ti của từng chiếc lông trên mắt lá lau vào những độ rằm. Tiếng hát miên man, miên man từng đêm.
    Con mẹ đó cũng tủi cũng buồn, có một đứa con, chẳng biết đâu là cha, là chồng, cũng tội.
    Mẹ ngừng lại trong lúc băm rau cho cá, bà thủng thẳng mỗi khi tôi đốt đèn ngồi học đêm khuya, bà đập tay vào bắp vế than mỏi và khó ngủ, rồi ngồi dậy lấy rau ra băm, tiếng dao va trên thớt từng nhịp nhúc nhắc, nhúc nhắc, hoà vào điệu buồn cũng túc tắc trong lời hát của chị.
   Tôi không hiểu sao chị không có chồng. Thằng bé lũn tũn vẫn đi theo chị ra bờ sông, ra những đầm tôm, lũn cũn bên chị, tạo nên hai cái bóng, một dài một ngắn, song song với nhau, đổ dài trên bờ ruộng, vào mỗi sáng khi ánh mặt trời vừa lên, chị cắp thúng, thằng bé cắp rổ, tiếng nói ê a của nó cũng đủ làm rộn lên con đường lau không nhìn thấy bóng người.
 
    À ơi ca khúc du miên
    Thương nhau chẳng đặng còn hoài tìm nhau…
 
Tôi cứ sống với lời ca của chị hằng đêm, cứ lớn lên qua lời ca của chị hằng đêm, tiếng hát có khi tròn vành rõ chữ, có khi cô lại như một lớp đường, cũng có khi nó đục khàn như tiếng của người qua cơn ho dữ dội, ngực đau thắt của những tháng ngày ốm đau quặt quẹo trong nỗi cô đơn. Nhưng tôi biết, nếu không có tiếng hát của chị, tôi không thể nào vui và lớn lên được.
    Đêm nào không nghe chị hát tôi lại thấy nao nao. Hình như bố biết được điều đó, bố chỉ bảo, lo mà học hành thoát được kiếp lau sậy, lớn lên mới thành người tử tế, lời ca cũng hay những chẳng ai sống mãi bằng kiếp xướng ca vô loài đâu con ạ.
    Chị ấy ngày xưa hình như cũng theo nghề ca hát?
    Thì ca hát chứ sao, bao người mê tiếng ca ấy chứ, thời trẻ cũng đẹp người, số đào hoa đâu tránh được ý trời, về già thành như thế. Có chồng cũng như không.
    Qua câu chuyện bập bõm, muốn kể mà như không muốn kể, bố không muốn tôi đi sâu vào đời tư của chị, hay không muốn tôi bị chi phối bởi lời ca không mấy khi vui, như đeo đá nặng vào kia, mà sầu thêm cho tâm hồn vốn đa cảm của thằng trai lớn lên quanh năm với bùn, sậy, với cua cá, mà bố muốn đánh tan cái cảm giác tiêu cực đó ở tôi, nên không mấy khi ông kể về cuộc đời chị, người đàn bà chuyển đến xóm chưa lâu, mà cũng không phải mau, nhưng không mấy khi tôi đi xuyên qua hơn trăm mét của cánh đồng lau sang thăm chị, nếu như không thiếu mắm, thiếu tương và gạo, nhưng nhà tôi lại chẳng mấy khi thiếu mắm tương và gạo, bởi mắm, mẹ đã muối hàng mấy chum phải mang ra chợ bán, tương bà tự ủ, còn gạo, thiếu thì ăn mì rong một bữa chứ sao, bà không muốn phiền ai, ông cũng vậy. Là ông bà không muốn cho tôi tiếp xúc với chị; hay bà sợ ông bị mê hoặc cái tiếng hát vốn làm say lòng cả bà, và vẻ đặm đặm của gái một con một thời xinh đẹp, giờ về bên đầm bên bãi vẫn không tránh khỏi sự mặn mòi dù đã có tuổi?
    Nhưng tôi không lấy sự khám phá căn chòi đó làm điều háo hức, tôi thích hơn, cái cảm giác, khi ánh đèn vàng bên cửa lá nhà mình được thắp lên vào mỗi lúc đêm khuya, ánh đêm đen dày đặc mới góp phần phát tán thứ ánh sáng vàng đi xa hơn, nó xuyên qua của sổ, đến tận bờ sông, và có lẽ bên nhà chị cũng nhìn thấy nếu như chọn chỗ cao nhất của khoảng sân để nhìn sang, thậm chí thấy tôi ngồi học bài mê mải bên ngọn đèn đến tận hai, ba giờ sáng. Lúc đó, chị lại cất tiếng ca, giọng đẹp, sáng, trong và buồn mênh mang, tiếng ca tan loãng vào không gian, vào tiếng gió, vào bờ sông, cùng tiếng ếch nhái, giun dế, tạo thành một bản hợp ca, đẹp miên man lòng người, mà tôi tin không một nhạc sĩ của đồng quê nào có bản hợp xướng tự nhiên mà trữ tình đến thế.
    Tôi thích cái không khí ấy hơn, và thích sự bí ẩn về câu chuyện cuộc đời người đàn bà đầy hoang dại đam mê dữ dội mà không kém phần bất hạnh cả liêu trai hơn là cảm giác được chạy băng qua cánh đồng lau sang bên đó, tôi sợ sự tỏ tường quá của bất cứ điều gì cũng giết chết đi vẻ đẹp, tôi sợ cái thứ huyễn hồ mà tôi vẫn nắm bắt một ngày tan loãng đi.
 
    À ơi, con ngủ giấc tròn
    Mẹ còn xuống bể lên non đội trời
    Đời ta cay đắng chơi vơi
    Làm sao đổi được con người thế gian…
 
Ngày xưa cũng ca sĩ này nọ, má phấn, môi hồng đẹp nhất làng, người ta kể vậy. Mẹ lại thủng thẳng câu chuyện của bà, không đầu không cuối vào mỗi đêm khuya, bà không ngủ, ra ngồi băm rau thả cho cá ăn. Thì tôi vẫn tin, tiếng hát của chị vẫn là điểm thu hút đối với tất cả những người trong gia đình tôi, cả bố, dù chẳng ai nói ra. Ai cũng muốn nó hiện hữu, nhưng chẳng ai muốn công nhận nó tồn tại, và không muốn nó tồn tại. Vì nó như một thứ ma quái, làm con người ta thấy thích thú muốn khám phá, lại làm người ta sờ sợ.
    Vì sao chị bỏ ca sĩ?
    Nghề đó bạc bẽo chứ sao.
    Thế còn đứa con?
   Tôi muốn gợi sâu hơn nữa vào đời tư của chị, mà tôi biết mẹ chẳng bao giờ tự nhiên nói ra, nếu như không chộp lấy cơ hội.
    Có với người chồng cũ.
    Vì sao lại bỏ?
   Thì đẹp và hát hay, có chồng rồi nhưng tiếng hát không ngừng được, sống giữa làng quê mà bao giờ cũng cất lên tiếng hát, trai làng dòm ngó, cả làng khó ngủ vì tiếng hát thì ít vì vẻ đẹp thì nhiều, nên nó cấm.
    Cấm gì?
    Cấm hát.
    Bị cấm hát, vì sao phải bỏ chồng?
    Có thứ cấm được, có thứ không, như mày và bố mày cấm nghe tiếng hát có chịu được không?
   Tôi lặng im không nói gì nữa, đàn bà bao giờ họ cũng có lý, bất kể điều gì, trái tim họ nhiều nhạy cảm và dự cảm, cả những linh cảm xa xôi, nên họ luôn luôn đúng.
    Chị ra đây để được hát ư?
    Cũng là thế, nhưng còn để cho nhiều người khỏi dòm ngó, đàn bà cũng cần chốn yên ổn.
    Chị đã yên ổn, còn tôi và bố thì không.
    Đêm đêm ông vẫn nằm đập muỗi trong cái màn đã ố vàng, khi các ngọn đèn đã tắt, chỉ còn ánh sáng từ căn buồng của tôi. Ông đập muỗi bằng bàn tay không chủ đích, bằng cặp mắt u tối, không còn thấy ánh sáng; ông đập bằng cảm giác; tiếng muối vo vo ông cứ thế định lượng mà bộp; tôi thấy những tiếng bộp vang lên nhiều và vô hồn lắm; không biết một đêm ông đập được bao nhiêu con, chỉ biết mẹ đã băm rau xong, vào một căn buồng khác nằm thở trằn trọc, tiếng đập muỗi của ông vẫn vang lên, kể cả khi tiếng hát kia ngừng không còn chảy nữa, dòng sông cũng chảy về lưng trời, tiếng rì rì của nó như ở một cõi xa xăm nào đó, chỉ còn tôi vẫn ngồi bên bàn học, chăm chú vào từng con chữ, nó cũng nhảy nhót khỏi đầu tôi, vẽ lên hình thằng cu tí, với dáng đi lũn tũn, vượt qua con đường lau sậy ngập lút đầu người lon ton theo mẹ nó.
   Một buổi chiều, thằng cu tí không chỉ về cùng mẹ. Tôi nhìn thấy một người đàn ông da rám đen, quần áo cáu cạnh, bắp tay anh ta to và thô, cặp chân cũng thô, hai mắt híp, chiếc mũi to và lưỡng quyền cao, mẹ nó đi sau cùng, thằng bé đi giữa và anh ta phăm phăm đi đầu tiên. Tôi thấy chị cười, một nụ cười tươi tắn vào buổi chiều, khi những tia nắng xiên khoai đỏ ối kéo qua bờ sông chiếu vào từng đám lau sậy làm hắt lên một màu đỏ ánh, nhuộm làn tóc chị, khuôn mặt chị, khiến nó ngời lên một vẻ đẹp lạ thường, bất giác tôi nghĩ đến cú lia ngược sáng của một nhiếp ảnh gia, anh ta bắt đúng khoảnh khắc thần kỳ của ánh sáng và quét một đường máy để chớp đúng thời cơ ngàn năm có một đó, cho ra một sản phẩm nghệ thuật tuyệt vời, đôi khi nó đạt đến đỉnh cao, là nhờ sự may mắn hiếm hỏi hơn là sự lao động nghiêm túc cầu thị.
    Ánh mắt chị ngời lên, tôi biết chị hạnh phúc. Thằng bé ton ton đôi chân nhanh hơn mọi ngày, dù nó về vào buổi chiều, trên tay nó một gói kẹo xanh đỏ, và nó đang đưa tay lên mút lấy mút để bàn tay dính đầy vị ngọt, với vẻ cũng mãn nguyện vô cùng như mẹ nó. Chỉ có người đàn ông là không bộc lộ cảm xúc. Anh ta cúi đầu đi như tránh lau sậy; anh ta hơi nhíu mày như khó chịu khi một cành lau vô tình quệt ngang mắt; anh ta tránh ánh mắt lé sang từ những của sổ của ngôi nhà cỏ lau khác; anh ta lặng lẽ đi, không hề bộc lộ cảm xúc.
    Bố ngẩng mắt nhìn lên, hơi chững người, rồi cúi xuống với mấy mét lưới đang đan dở chuẩn bị cho mẻ cá mới đêm nay.
    Ai thế nhỉ, không biết chừng…
    Mẹ ngừng tay với nắm rau băm dở. Bà nói rồi để nửa chừng, không nói thêm nữa, mà lặng lẽ nhìn bố rồi đi vào buồng lấy gạo, chuẩn bị cho bữa tối, trước khi bố con tôi ra sông vào đêm nay.
    Đêm đó, tôi không nghe thấy chị hát. Đêm đó, khúc sông này gió như to hơn, giun dế cũng không còn mở hội và tiếng nước chảy nghe chừng dữ dội.
    Đêm đó, ánh đèn vàng nhà tôi như hắt tia không xa, không thể xuyên qua được cánh đồng lau sậy đến sân nhà chị. Đêm đó, cả xóm lau chìm trong màu đen tĩnh mịch. Chỉ có tiếng bố con tôi thì thụp, chỉ có tiếng lách cách của những móc lưới va vào nhau trên đoạn sông vắng, khi bố con tôi cố gắng một mẻ cuối cùng trước khi tôi về, để kịp đi học vào sớm mai.
    Đêm đó, chị và thằng cu tí chắc ngủ ngon.
    Những đêm sau tôi cũng không nghe thấy chị hát nữa, dù có đêm, vì tò mò, tôi ra chỗ đất cao nhất nhà mình, nhìn qua đám lau sậy, nhòm sang bên ấy, để xem còn  ánh đèn không, hay một sự sinh hoạt bình thường nào đó, để thấy sự tồn tại của họ, những con người xung quanh ta mà ẩn hiện, mà rời rạc, không liên kết, để ta sống giữa đời sống mà vẫn thèm, thèm hơi hướng của con người. Nhưng tuyệt nhiên không thấy. Gió ngoài bờ sông vẫn thổi, cánh cửa nhà chị khép chặt như chưa bao giờ được mở ra, và chưa bao giờ ở nơi đó lại có ánh đèn vàng vào những đêm khuya khoắt như để tương thích với ánh đèn vàng nhà tôi, và từ nơi đèn vàng đó cất lên tiếng hát đầy say sưa và quyến rũ, tựa như nghìn đời nay con người mới được tự do ca hát, như hát ca vốn là bản năng thiên bẩm của loài hoạ mi, như ca hát đã ngấm vào tâm hồn chị và chị đến giữa bãi bờ, sống giữa bạt ngàn lau sậy là để được hát ca vậy.
    Tiếng hát giờ đây đã bị trói lại. Không hiểu sao tôi hình dung thấy con chim hoạ mi mỏ vàng lông mượt nhảy nhót trên cành, cất lên tiếng hót để dụ dỗ những chị chim cái lẳng lơ, bỗng nhiên bị buộc chân và buộc mỏ một cách tàn nhẫn, nó cố vươn người để chu cao tiếng hót, nó cố vươn mỏ dài để kêu cứu giải thoát sự đau thương.
    Nhiều ngày sau, nhà đó vẫn đóng cửa thường xuyên. Hơn mười ngày sau, nhà đấy vẫn im ỉm không một ánh đèn.
    Và bố không còn đập muỗi hằng đêm trong lơ đãng, mà ông thở dài. Tôi vẫn ngồi học bài trong căn buồng nhỏ, nhưng ánh đèn vàng không vẽ lên hình thằng bé lũn cũn vào mỗi sớm mai, mà vẽ những khuôn mặt người nham nhở các hình thù kỳ quái của những tam giác, tứ giác, đa cạnh, nguệch ngoạc mà không hề vô tổ chức. Bức tranh lập thể được vẽ lên đầy những mặt người gớm ghiếc, những chiếc răng nanh thò dài nhe ra, miệng đỏ lòm nhỏ ra những giọt máu tươi, những chân răng bị gẫy lỗ chỗ những vết đen sâu hoắm. Bức tranh được vẽ hãi hùng, làm tôi hét lên. Mẹ lật đật chạy ra, đập liên tiếp vào người, vào đầu tôi, rồi lấy chăn trùm lên gáy, bởi dầu đèn loang khắp mặt mũi, lửa đã bén đến chiếc áo tôi đang mặc trên người.
    Một cơn mơ hãi hùng và lửa thật…
    Nhưng đêm sau nữa, bất ngờ tôi lại nghe tiếng hát. Con chim hoạ mi bị cầm toả giờ lại trở về vùng trời của nó ư, bất giác tôi nghĩ, và lòng không khỏi chộn lên niềm vui, tôi lại đợi những điệu buồn mênh mang, giọng hoà vào sông nước, như một phần âm thanh của tự nhiên, của gió trời, của mưa bão. Giọng chị thật đặc biệt, và dường như không phải đang mô phỏng tiếng của gió trời, mà thiên nhiên phải mô phỏng âm thanh của tiếng hát con người. Giọng cao và trong vút lại cất lên, mênh mang một vùng rộng lớn, len lỏi vào từng cọng lau, len vào từng cọng tóc, làm da đầu tôi dựng đứng lên.
 
    Người ơi hoá kiếp phong trần
    Làm thân con én có lần gặp nhau…
 
Bài hát quen thuộc, tôi vẫn nghe chị hát từ dạo trước. Bài hát mỗi lần chị hát lên, mẹ thường thở dài bỏ vào căn buồng, dù tiếng băm dở của con dao chưa chạy đến được thân rau đi nữa, tôi biết, là mẹ nghĩ đến một đời dằng dặc của mình, là mẹ nghĩ đến bãi lau sậy cùng mênh mang đầm phá, là mẹ nghĩ đến con sông mùa nào cũng có cá để bố con tôi phải vắt trần đan lưới và đi giăng; là mẹ muốn hết lau, muốn hết những đêm trăng, muốn hết những bãi bồi, hết tiếng bìm bịp kêu đêm, hết những khúc chảy rì rì như báo hiệu còn nước, để bố con tôi không phải đốt đèn vàng, không đập muỗi, không còn phải trăn trở đêm nay mấy giờ thì ra gỡ lưới, không thở dài đưa tay đập vào không trung cùng gió đồng mà chẳng bao giờ gặp một con vật hút máu nào.
    Nhưng lần này, tôi nghe thấy giọng người đàn ông vang lên ngay sau đó. Người là thằng nào. Cô còn tơ tưởng đến nó à, khôn hồn thì khai ra. Giọng ca im bặt, và không một động tĩnh gì từ nhà bên đó nữa, cửa nhà họ lại tiếp tục đóng im ỉm, họ đã chìm vào đêm tối, nhắc nhở tôi cũng nên chìm vào bóng đêm.
   Rồi đêm nữa, giọng buồn xa vắng lại cất lên, giữa tiếng lách cách nhà ai kéo lưới ngoài sông xa, trăng sáng lắm, vằng vặc soi trên cao, dát một màu bạc đổ tràn xuống đồng lau sậy.
 
    Chim trời cá nước bay đâu
    Để em buồn nhớ, ôm sầu anh ơi…
 
Bốp, bốp. Tiếng to hơn tiếng bố vỗ muỗi hàng đêm trong màn mỗi đận. Cùng đó là tiếng gầm: Ai là , ai là chim, khai mau. Mày có chồng rồi còn tơ tưởng thằng nào, mày không dám công khai, phải hát lên để nhắn nhủ nó à, thằng nào ở bờ sông, ở bãi lau đang đợi mày?
    Tôi thấy chị khóc, tiếng khóc nấc lên thổn thức, như đau đớn; nỗi đau của thân xác chẳng thấm chi với nỗi đau của lòng người. Người đàn bà ngoài ba mươi thổn thức trong niềm đau bị cầm toả, bị cắt ngưng tiếng hót, tiếng khóc mới đau đớn làm sao.
    Bố thở dài thườn thượt. Mẹ đế theo, hát hay đúng là kiếp hoạ, đời người có khi nào có những kiếp hoạ dở hơi?
    Và từ đó tiếng hát chị cũng ngưng.
    Tôi học xa về, mẹ áo não bảo, đi rồi, đúng là hồng nhan, tài hoa thì bạc mệnh.
    Đi đâu?
    Đi xa lắm, chẳng ai rõ, chắc lại tìm đến bờ sông, bến bãi nào đó để được tự do hát ca. Tao không biết hát cũng khổ mà giờ thấy biết hát càng khổ hơn, phận đời người ai ơi, chắc biết thế nào?
    Đi với ai?
    Đi một mình chứ với ai.
    Thế còn gã đàn ông dạo nọ?
    Bỏ nhau rồi, ai chịu được con người như thế, mà không chuyển đi nó cũng về quấy nhiễu, cái thằng trời đánh, ai đánh nó mà nó đánh người ta, ai cấm nó, mà nó cấm người ta?
    Đi đâu? Tôi hỏi dồn dập, hỏi như thể sợ mẹ sẽ trả lời không biết, hỏi như thể sợ mẹ quên mất tôi đang cần biết, hỏi như là sự truy lùng cật vấn, như sợ mẹ chợt nghĩ ra điều gì sâu xa từ ánh đèn vàng nơi cửa sổ bằng lau nhà tôi mỗi khi tôi ngồi học bài, hay tiếng muỗi bay vo ve thì ít mà tiếng thở dài ngao ngán của bố tôi thì nhiều, bà sẽ im bặt lại không nói gì nữa…
    Đi đâu?
    Thì đi đâu có bờ lau, bãi sậy, có khúc sông, cánh đồng, có không gian rộng lớn, có thiên nhiên, cỏ cây vô tri mà hát chứ sao, hát giữa kiếp cây thì dễ, hát giữa kiếp người mới khó chứ sao?
    Chị đi đâu, chị lại đi đâu, đi tìm tiếng hát của mình ư? Nó đã bị đánh rơi và đánh cắp, hay đi tìm chính thân thể chị, để trả về với đúng nỗi đam mê của người đàn bà biết hát và chỉ hát ấy, còn gì vui hơn là cất cao tiếng lòng?
    Bao đêm, tôi lại ngồi vào chỗ đó, để nghe ánh đèn giọi vào đêm vắng mà biết chắc, phía bên kia đồng lau sậy, không còn ai thức cùng tôi để cất lên tiếng hát, con đường mòn dẫn sang đó, cỏ lau đã che hết lối, thằng bé lũn cũn về đâu? Âm thanh tiếng hát về đâu?
 
***
 
Cánh đồng lau mỗi trận gió về lại rạp mình theo hướng gió. Mùa hái bông, tôi bị lút vào một vùng rộng lớn, mênh mông, mẹ phải hú lên gọi ở đâu, để bà vạch đường, lôi tôi từ đám cây rậm rạp.
    Chọn những chỗ bông tốt, mới cho ra được cái chổi bền và đẹp.
    Làm sao biết được chỗ nào có bông tốt mẹ ơi?
    Chỉ tay về hướng những bông trắng li ti cuộn tròn, chốc chốc lại xoay tít trên cao, bà bảo, Nếu thấy bông bay về phía mình thì cứ lần ngược theo hướng gió mà đi.
    Tháng mười, sậy đã chín nhiều vô kể. Tôi vẫn lần ngược theo hướng gió tìm lau…
 

—Bảo Thương

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.