Trang Thơ Mùa Thu

13/10/202300:00:00(Xem: 3901)

 

bui-giang-phan tan hai
Tranh Phan Tấn Hải

 

Mùa thứ ba trong năm đã chớm về. Autumn ngoài nghĩa mùa thu, còn mang nghĩa ẩn dụ là chỉ lúc xế chiều, lúc ngày sắp tàn, là mùa mà ban ngày ngắn và dần lạnh hơn. Bên cạnh hình ảnh biểu tượng là mùa lá rụng, lại cũng là mùa phần lớn trái cây được thu hoạch, vì gắn với đời sống thiên nhiên này mà từ rất lâu văn hóa Tây phương đã nhân cách hóa mùa thu là người phụ nữ trẻ đẹp đầy sức sống với mái tóc gắn đầy lá hoa quả chín, là hình ảnh vừa nên thơ vừa chứa đựng sức sống diệu kỳ của mùa gặt hái.

Nhìn về mặt thơ mộng của mùa thu, đúng vậy, không ai phủ nhận được nét quyến rũ của bản giao hưởng màu sắc lá vàng cùng tiếng hát của gió, và thấu được quyền lực của mùa thu qua những bài thơ được viết ra bởi sự khêu gợi dịu dàng kỳ bí của nó, qua các tác giả Rainer Maria Rilke, Edna St. Vincent Millay, Bùi Giáng, Phạm Phú Hải, Tần Vy, Giáng Vân, Trần Hoàng Phố, Pháp Hoan, Kwang Kyu Kim, Phương Uy, Vy Thảo, Nguyễn Thị Khánh Minh, Trần Mộng Tú, Trịnh Y Thư. – NTKM.

 

***

 

RAINER MARIA RILKE (1875-1926)

 

Ngày Thu

 

Thưa Chúa tể, giờ đã điểm, mùa hạ vô cùng lớn.
Hãy trải bóng Người lên những chiếc đồng hồ mặt trời,
Và trên cánh đồng trơ rạ hãy thả những cơn gió được tự do.

Lệnh truyền cho quả cuối mùa chín tới;
Ban phát cho chúng thêm đôi ngày nắng ấm phương Nam,
Dồn thịt da chúng trở nên căng mộng hoàn toàn
Rồi ép lấy vị ngọt cuối cùng vào rượu nồng sóng sánh.

Ai giờ không nhà cửa, sẽ không cần xây cất.
Ai cô đơn, sẽ còn mãi cô đơn,
Sẽ thức giấc, đọc, viết những bức thư dài
Và trên những con đường làng bồn chồn rảo bước
Khi những chiếc lá vàng rơi xuống tự trên cao.

 

(Pháp Hoan dịch từ nguyên tác tiếng Đức)

 

*

 

EDNA ST. VINCENT MILLAY (1892-1950)

 

Mùa Xuân và Mùa Thu

 

Vào mùa xuân, mùa xuân của năm

Tôi bước cạnh người tôi yêu – trên đường

Những thân cây thì đen và vỏ ướt

Tôi vẫn còn thấy chúng – vào mùa thu của năm.

 

Chàng bẻ cho tôi

một cành đào đơm bông

xa lối đi và khó với.

 

Vào mùa thu, mùa thu của năm

Tôi bước cạnh người tôi yêu – trên đường

Những con quạ bay lên – tiếng kêu khàn đặc

Tôi vẫn còn nghe chúng – vào mùa thu của năm.

 

Chàng chế giễu hết thảy những điều tôi ca ngợi

và đánh vỡ trái tim tôi

bằng những điều vặt vãnh bình thường.

 

Mùa xuân sẽ tuôn trào bao mạch sống

Mùa thu sẽ rụng rơi bao lá vàng

Vỏ cây sẽ rỉ từng giọt nước

Bầy chim sẽ gọi mừng hoan ca

Có bao nhiêu điều đẹp xinh để thấy

Có bao nhiêu điều ngọt ngào để nghe

Vào mùa xuân của năm – vào mùa thu của năm.

 

Chẳng phải vì tình yêu ra đi

mà tôi đau đớn

Tôi đau đớn

Khi thấy tình yêu ra đi

vì những điều vặt vãnh bình thường. 

 

(Đỗ Tư Nghĩa dịch)

 

 

*

 

BÙI GIÁNG (1928-1996)

 

Nghe

 

Cúi đầu nghe tạnh

Mưa chiều rừng gió đi mau

Con đường trăng lạnh

Hang rừng bông rụng hoa đau

 

Cồn xưa cỏ mọc

Lá sông chảy xuống chân trời

Chảy lên mái tóc

Một mùa thu gục bên tôi

 

Người kia đứng lại

Nghe trời đẩy xuống hai vai

Con đường thơ dại

Còn đây lá cũ một vài

 

(Trích từ tập Mưa Nguồn, 1993)

 

*

 

PHẠM PHÚ HẢI (1950-2009)

 

A, AA, AAA, AAAA…

 

Lạnh mùa thu ở trong núi đá

Có con cá nhỏ chết bên cầu

Có con chim nhỏ vì vui quá

Cũng chết bên cầu ấy, bữa xưa

 

Có một thư sinh lên núi đá

Hỏi thăm đường tới chốn Bất lai

Trăng khuya úp mở sau ngàn lá

Bướm đỏ đàn đàn chấp chới bay

 

Có lão tiều phu trong núi đá

Mười năm say hương quế, quên về

Lều đựng gió đầy rung mái gió

Một cầu cổ nguyệt chảy tràn khuya

 

Trăng khuyết xuôi trăng tròn trăng khuyết ngược        

Bứt tháng, hái ngày, phơi khô năm

Năm khô râu cũ đùn râu mới

Sợi sợi ấn ngời Vô lượng quang

 

Xuất định bốn bề sương giọt giọt

Con chim xưa sống lại bên cầu

Tiều lão mặt trời vai tịch tịnh

Mặt trời rơi xuống giữa dòng sâu

 

Chẳng đến đâu chẳng từ đâu đến

Con chim ngày cũ hót inh rừng

Bên cầu đứng ngắm hai dòng nước

Một chảy xuôi đông một ngược nguồn

 

Không ở đâu không đâu chẳng ở

Cá hồi dương lội ngược chiêm bao

Cầu gãy hai bờ xưa tương ngộ

Trùng phùng từng hột đất xôn xao

 

Mùa thu núi đá lạnh vô cùng…

 

1972

 

*

 

TẦN VY

 

Ý nghĩ (trích đoạn)

 

Buổi bình minh rạng rỡ hình ảnh anh

Những trốn tránh thừa thãi như bóng tối lẩn quất

Giấc mơ ngọt ngào của nụ hồng sớm mai

Trên những cành gai sương thu đọng thành lệ xót

 

Đỉnh đời cao, cây cối muộn phiền

Mùa thu phục sinh những chiều lá úa

Nỗi nhớ vang vang khúc tình ca cũ

Mênh mông trước mắt, thủy triều sầu

Đường cỏ hoang kỷ niệm không lối về

Mưa đổ xuống những tháng năm ngây ngất

Nỗi xúc động còn day dứt hoài

Nắng đã vơi nắng, đời sắp tà

Trận cuồng vọng đã dừng lay động

Vắng lặng đìu hiu như hấp hối thinh không.

 

*

 

GIÁNG VÂN

 

Em đã bỏ đi

 

Em sẽ phàn nàn hay cãi cọ

Về những cư xử tệ với mình?

Ồ không.

Em đã bỏ đi

Rất xa

Những cái cây mùa cũ rụng lá

Mọc lên bao nhiêu chồi non tơ

Sao người còn đứng đó

Lặng im

 

Quán cà phê cũ

Đóng cửa rồi

Người chủ không biết giờ ở đâu

Anh chàng chơi ghi ta em không còn gặp lại

Nhớ Từ Công Phụng

Mùa thu mây ngàn

Sương mù tím loang chiều muộn.

 

Những câu thơ da diết

Đã trôi vào hư không.

 

*

 

TRẦN HOÀNG PHỐ

 

Bình yên và tĩnh lặng

 

Một nhánh mơ rơi xuống cửa sổ lòng tôi

một ngày thu nhẹ như một hơi thở

 

Cho tôi một chút dịu dàng như gió

Gió đậu trên vai lá

Lặng ngắm những bông hoa ngũ sắc 

mở những đôi mắt hồn nhiên thật to

 

Cho tôi chút lặng yên như hồ thu

Linh hồn tôi

là nước tĩnh lặng

Bên trong của bông sen dậy mùi hương

Nhẹ và thơm như má trẻ thơ

 

Một chiếc lá giấc mơ rơi xuống

bên sân lòng tôi

Bình yên và tĩnh lặng

như giấc ngủ nhẹ của cái chết

 

*

 

PHÁP HOAN

 

Tượng Phật không đầu
trăng thu tìm thấy
trong lòng suối sâu.

 

(Trích trong 26 bài Haiku của Pháp Hoan)

 

*

 

KWANG KYU KIM

 

Bầu trời Mùa Thu

 

Không một gợn mây

Và bầu trời mùa thu thẳm xanh trống rỗng

Không có gì bao bọc trái đất

Không có gì che phủ bầu trời

Chỉ nắng trải mênh mông

Và gió thổi

 

Trái tim tôi bức bối

Phải chăng cần một chiếc lá vàng rơi qua bầu trời?

Lời cầu nguyện bao giờ được ban phát

Và như có một mệnh lệnh

Tất cả được xóa sạch

 

Không một gợn mây

Bầu trời mùa thu thẳm xanh hiện ra nỗi sợ hãi mơ hồ

 

(Nguyễn Quang Thiều dịch trong tập 5 Nhà Thơ Hiện Đại Hàn Quốc, 2002)

 

*

 

PHƯƠNG UY

 

Khúc vô ngôn tháng Tám

 

 

mùa lặng lẽ theo mùa

rơi qua âm u tháng Tám 

bỏ lại anh lạc lõng phía câu ca không lời

dẫu hồn nhiên đứng lơ ngơ giữa ngã tư, ngã năm, hay ngã bảy

vẫn nghe lòng lưa thưa vắng

một mình thôi.

 

mùa đang bão rớt

hiếm hoi ngày chút nắng xanh xao

mặt trời ngủ quên

mặt trời không hát.

chút ấm áp bên em giờ cũng hư hao.


anh lạc giữa muôn phương ngã tư đường tấp nập

lạc điệu trên tay bài thơ cũ vô ngôn

nghe chữ nghĩa biến thiên theo mùa gió rớt

anh lao đao

đi nốt những đoạn buồn.


anh đã sáng lóa tình yêu bằng muôn trùng ảo tưởng

như lũ ve gào mùa bất lực đẫm mồ hôi

để một ngày thảng thốt nhớ ra

mình chỉ là làn khói xưa đi lạc

rồi đã biến tan như chưa từng đến bên người (*)


đêm hạ huyền nghe sương rủ trên nhánh trăng liềm khép mắt

anh lẫn lộn giữa nỗi buồn và nỗi nhớ em

nghe trên mái nhà cơn gió cô đơn của mùa áp thấp

thổi lặng câm cơn độc thoại cũ mèm

 

(*) Hà Mây

 

*

 

VY THẢO

 

Ta nằm ngoài cả những lá ngoài kia sẽ chết

 

Ta nằm ngoài mọi thứ

Ý nghĩ đó văng vẳng bên tai

Khi ta đi dạo trên dòng sông thu sắp cạn trơ đáy

 

Tiếng cá quẫy xào xạo lòng sông mỏng nước

Mỏng dòng

Mỏng màu thu phai

 

Thu phai điều gì

Kể ta biết

Thu phai những lá ngoài sông

Thu phai cả áo em ta

Thu phai cả hồn ta lợt lạt

Thu phai những mối tình lướt qua ta như con gió

Khi mà một cái chợp mắt trăm năm trôi qua

 

Ta nằm ngoài mọi thứ

Ta nằm ngoài em mỏng manh

Ta nằm ngoài em dịu dàng

Ta nằm ngoài cả những lá ngoài kia sẽ chết.

 

*

 

NGUYỄN THỊ KHÁNH MINH

 

Gió sẽ thổi mùa thu đi

 

Gió nức lạnh

Lời chia tay còn ngậm

Sợi đàn căng. Một nốt nhạc chưa buông

Đêm ẩn dấu ánh nhìn

Nước mắt đừng rơi

Lời chia tay thôi đừng nói

Con đường sẽ nặng những âm thanh

 

Gió sẽ thổi mùa thu đi

Cuối dốc sương

Anh còn thấy được không

Mầu áo em vàng và tóc em bay

Ngày mai anh ạ

Sẽ chỉ còn dư âm của mùa chuyển mơ hồ

Mất dấu một lời hẹn

Và dường như, cũng thế,

Lời nói yêu em

 

Cứ lặng lẽ, những ra đi

Tự nhiên như

Em luôn có một khoảng không

Đầy tay

buồn bã

 

(Trích tập thơ Ký Ức Của Bóng, NXB Sống &Phố Văn 2013)

 

*

 

TRẦN MỘNG TÚ

 

Mười hai bài thơ mùa thu (Theo vận Haiku: 5-7-5)

 

Tiếng ngỗng ngang mái nhà

Ngập ngừng bên hiên hoa cúc nở

A mùa thu gõ cửa

 

Bàn chân lạnh trong chăn

Buổi sáng co mình ngoài cửa sổ

Mùi trà xanh trong bếp

 

Con sóc ngậm hạt dẻ

Nhẩy qua những cành phong chớm đỏ

Đánh rơi một mảnh Thu

 

Buổi sáng thổi xôi đậu

Màu xôi vàng như màu hoa cau

Ngửi được mùa Thu tới

 

Rượu mận ủ năm ngoái

Bây giờ đã lên men ngất ngây

Rót ra mời mùa Thu

 

Giọt sương buổi sáng rơi

Trên chiếc lá phong vừa chớm đỏ

Như một vệt son môi

 

Những lá sen mùa Hạ

Rủ nhau nằm úp mặt trong bùn

Ếch nghiêng đầu gọi Thu

 

Cái dốc sau nhà tôi

Nai vào tìm ăn dâu mùa Thu

Có phải nai năm ngoái

 

Trên con đường cũ này

Tôi đi tìm người bạn năm đó

Chỉ tìm được mùa Thu

 

Cây Mộc Liên nhà tôi

Bắt đầu thi nhau rụng lá Hè

Tôi vuốt Thu trong tóc

 

Sương mùa Thu lạ lắm

Trông xa đẹp như hạt ngọc trai

Không phải đâu, hạt lệ.

 

Tôi với người yêu đi

Dưới những hàng cây mới chớm đỏ

Trái tim chín từ hôm qua.

 

(Mùa Thu 2022)

 

*

 

TRỊNH Y THƯ

 

Còn mình ta đứng giữa trời

nhìn con nước chảy cát phơi hai dòng

bến bờ nửa mảnh thu phong

cũng tàn xiêu cả rêu rong ngập hồn.

 

Nghe trong tôi niềm mênh mang

nghe đâu đây thoảng nhặt khoan tiếng lòng

rơi rơi êm vào hư không

bay bay chiếc lá cuối cùng về đâu.

 

(Trích từ bài thơ Con Nước Vô Danh gồm 42 bài tứ tuyệt lục bát)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thiên Lý Độc Hành, là tựa một tập thơ của Thầy, và cũng là bốn chữ được viết treo trên hương án của Thầy tại chùa Phật Ân, huyện Long Thành, nơi Thầy ở vào những năm tháng cuối đời. Thiên lý độc hành, hình ảnh biểu trưng nhất về Thầy Tuệ Sỹ, muôn dặm cô lữ dằng dặc nỗi ưu tư phận nhà vận nước…Và, khó làm sao để tường tận cái chấp chới của vạt áo tỳ khưu đẫm ánh trăng đêm, thấp thoáng ẩn hiện Người và cõi thơ tịnh tĩnh. Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở/ Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan... Hỏi, tại sao, vì đâu, lòng muối kiên định... để bất khuất chưa tan?
Tháng tư nắng quái trên tàng lá / Ngày nóng rang, khô khốc tiếng người / Nước mắt ướt đầm trên mắt mẹ / Nghìn đêm ai khóc nỗi đầy vơi? / Tháng tư em dắt con ra biển / Hướng về nam theo sóng nổi trôi / Thôi cũng đành, xuôi triều nước lớn / Làm sao biết được, trôi về đâu?
Dù đứng bên bờ vực của tận diệt, con người vẫn có thể cứu chuộc chính mình bằng ngôn từ và ký ức, đó là tinh thần của giải Nobel Văn Chương năm nay. Trong ánh sáng của niềm tin, Việt Báo đăng lại bài thơ “Hãy để nước Mỹ lại là nước Mỹ” của Langston Hughes – một khúc ca vừa đau đớn vừa thiết tha, viết gần một thế kỷ trước, mà như viết cho thời đại ngày nay. Giấc mơ Hughes gọi tên lại vang lên – giấc mơ về một xứ sở nơi lời hứa của nước Mỹ là hơi thở chung của những người cùng dựng lại niềm tin vào công lý, vào tự do, vào chính con người.
Đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp, nhất là trong tập Tôi Cùng Gió Mùa, nếu cho là chủ quan, tôi vẫn nói rằng, Khí thơ của Nguyễn Xuân Thiệp là khí thu. Trăng ở thơ đó là trăng thu. Gió ở thơ đó mang cái hắt hiu thu. Không biết tại sao, chỉ thấy Khi đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp tôi lại liên tưởng đến cảm xúc của Trương Trào trong U Mộng Ảnh xưa: “Thơ và văn được như cái khí mùa thu thì là hay.”. Nguyễn Xuân Thiệp, xuất hiện lần đầu tiên trên dòng thơ của văn học miền Nam Việt Nam vào năm 1954 trên Thẩm Mỹ Tuần Báo với bài thơ Nhịp Bước Mùa Thu. Bài thơ tính đến lúc này là 71 năm -tiếng thở dài một đời người-, hôm nay tôi đọc lại, cảm xúc vẫn bị lay động bởi hình ảnh u buồn của lịch sử vào thời gian xa xăm đó.
Nguyên Yên, một trong những nhà thơ đương đại nổi tiếng ở hải ngoại. Cô chưa in một tập thơ nào, chỉ xuất hiện trên một số trang web như Việt Báo, Văn Việt, Hợp Lưu, Blog Trần thị Nguyệt Mai, Phố Văn… Ngoài những bài viết về thời sự, bình luận ký tên thật Nina Hòa Bình Lê với cái nhìn sắc bén và nhân ái, người đọc còn được biết đến Thơ của cô, với bút danh Nguyên Yên. Một tiếng thơ gây ngạc nhiên bởi ý tưởng, hình ảnh độc đáo, giản dị, mạnh mẽ, trữ tình. Tôi thực sự bị dòng thơ này lôi cuốn.
Theo đại thi hào R.Tagore "Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong". Theo tác giả cổ đại Ovid (khoảng năm 43 trước Công Nguyên) thì: “Có ít nhiều sự thoải mái trong cơn khóc”. Thi sĩ Colley khẳng định: “Lời nói để khóc và nước mắt để nói” Thi sĩ người Pháp Alfred de Musset có câu thơ: “Cái duy nhất còn lại cho tôi ở trên đời/ Chính là những lúc đã đôi lần nhỏ lệ”. Thi sĩ người Anh Robert Herrick: “Giọt lệ chính là ngôn ngữ cao quý của đôi mắt” .Nhà thơ trẻ Nepal, Santosh Kalwar tâm sự: Tôi đã mỉm cười ngày hôm qua. Tôi đang mỉm cười ngày hôm nay và khi ngày mai đến, tôi sẽ mỉm cười. Vì đơn giản, cuộc sống quá ngắn để ta khóc về mọi thứ – Và ai đó đã cho rằng: Không có gì đẹp hơn một nụ cười đã trải qua những giọt nước mắt.
Trong tập Bốn Mùa Trời và Đất, Márai Sándor cảm giác về mùa hè, …Tôi đứng trên ban công, giữa một vùng xanh, nghe tiếng rì rào thức dậy của cây cỏ. Mùa hè đây rồi, tôi nghĩ; và nó giống như một cảm xúc tràn ngập trong tôi, không khoan nhượng, và đầy những kỷ niệm giản dị… (Giáp Văn Chung dịch) Trong tản văn Hoa Nở Vì Ai, Vũ Hoàng Thư viết, …Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm… Và mùa hè trong truyện của Đặng Thơ Thơ, … Đó là lúc chín nhất của mùa hè. Những trái táo bắt đầu căng mật. Từ trong lá cây thoảng ra những ngọn gió màu xanh thẫm...Ở Cảnh Nhàn của Bạch Vân Cư Sĩ có thú sống, xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…, có lẽ thời của người, nước còn trong ao còn sạch.
Bạn đang nghe thấy gì trong khí hậu tháng Tư? / Tiếng kêu từ đáy huyệt cuối trời. / Tiếng gió xoáy những cột cờ tử thương tuẫn tiết. / Tiếng phố vỡ triệu mảnh thủy tinh cắt lồng ngực tháng tư rỉ máu mãi chưa khô. / Tiếng sóng hôi dao mùi hải tặc từ oan nghiệt một thời biển huyết. / Tiếng oan hồn dật dờ tìm về cố quận, đáy vực kia bầy cá hoang tảo mộ. / Tiếng hậu chấn từ tâm hồn con dân tháng Tư choàng lên thảng thốt. Dấu chàm xanh lưu xứ để nhận ra nhau. / Tiếng con bướm gáy trong giấc ngủ đôi bờ chiến tuyến. / Tiếng vô vọng của dòng thơ đớn đau, sỉ nhục trải dài trên đất đai tổ quốc. /Tiếng mong mỏi trên những dòng thơ đang vuốt mắt lịch sử, xin hãy chết yên, chết quên, và mở lòng ra ôm những vết thương, trồng lại bóng Quê Nhà…
“Chìm trong biển chết trôi tim người / Còn gì đâu tiếc thương xa xôi …” Chiếc tàu nhỏ rời bến Constantine, Algeria, chở Enrico Macias đến một nơi xa lạ, người lưu vong không bao giờ được phép trở về. Làm sao cánh chim di có thể quên lối cũ? Chiến tranh xua đuổi ông ra khỏi quê nhà. Tàu khởi hành không một người đưa tiễn. “Người tình ơi, ta xa nhau. Mượn đôi mắt em lên đường.” Với cây guitar làm hành trang, ông ghi lại, “J'ai quitté mon pays …”
Hãy tạm để những chuyện buồn nằm im dưới mâm cỗ ngày Tết, để ta chỉ được thấy màu xanh lá bánh chưng, màu đỏ ối ruột dưa hấu, màu vàng đỏ tung xòe trong những bao lì xì nhỏ, màu nắng chín nhấp nháy trên những trái quất… bây nhiêu đó có đủ để bạn đón hơi thở mới của đất trời? Hy vọng vậy để chúng ta được mọc lên như cỏ non trên khung rêu ngày tháng cũ. Bài thơ của Nguyễn Hồng Kiên tôi đọc được từ trang của trường Mầm Non Cự Khối, bài thơ được dạy cho các em lứa 4 tuổi, như một lời chúc tết hồn nhiên.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.