Hôm nay,  

Sự đời

13/10/202300:00:00(Xem: 3153)
 
Logo cho fb
 
Trung tâm lọc máu, nơi tôi đến “làm việc”, khá qui mô, gồm nhiều nhân viên: văn phòng, tiếp tân, kỹ thuật, lao công dọn dẹp vệ sinh, bác sĩ, trợ lý, y tá… Riêng đội ngũ y tá gồm 6 người, trong số này có hai người cho tôi nhiều ấn tượng nhất:
   
Một anh Mỹ đen cao to như con gấu, chí ít cũng 250 ký, khó đăm đăm, ít khi cười, phát ngôn cộc cằn. Nói chung, thoạt nhìn tôi không ưa nổi, và sợ, tay này lụi kim (mỗi lần 2 mũi, kim to như cây tăm xỉa răng, cách nhau khoảng 2cm, một mũi hút máu ra đưa vào máy lọc chất dơ rồi trả lại cơ thể qua mũi thứ hai. Cứ thế luân lưu hơn ba tiếng), tôi nghĩ, chắc đau xón đái.
   
Một con bé người Phi dong dỏng cao, xinh gái, lễ phép, vui vẻ, dịu dàng.
   
Các y tá luân phiên, chừng 10 ngày vòng xoay lại đến. Ban đầu tôi rất mong con bé sẽ lo cho mình, ngược lại, nơm nớp sợ tên Mỹ đen “tra tấn”.
   
Nhưng sự đời nhiều cái thực không thể ngờ.
   
Con bé dễ thương như thiên thần lại vụng về đến… kinh hoàng. Nó thường lụi kim trật lất, năm lần bảy lượt mới trúng mạch máu, cứ như tay chơi thứ thiệt, thọc trên nạy dưới đâm ngang xỏ dọc. Đau tắt thở!!! Ngược lại, “con gấu” trông bặm trợn lại tuyệt vời, lụi kim chính xác và êm ái nhẹ hơn kiến cắn, thậm chí có lúc tưởng như không.
   
Từ lúc ấy tình cảm tôi xoay 180 độ. Trông chờ đến phiên tên da đen bao nhiêu thì sợ gặp thiên thần bấy nhiêu.
   
Từ chuyện lọc máu, nhỏ, chợt nhớ chuyện xưa, lớn hơn.
   
Hai chuyện tình tiết khác nhau nhưng có cùng mẫu số chung: đau! Một đằng đau thể xác, đằng kia đau tinh thần. Nỗi đau thể xác qua nhanh (nhiều năm qua, cách ngày, hàng ngàn mũi kim đã lụi vào mạch máu, nhưng chỉ đau vài giây rồi thôi). Nỗi đau tinh thần khó xóa. Tuy thời gian có làm nhạt bớt, vậy mà thỉnh thoảng hồi nhớ vẫn nghe nhoi nhói, cảm giác nhoi nhói này chắc chắn sẽ bám theo cho đến ngày xuống lỗ.
   
Thuở trên dưới hai mươi tôi sống khá buông tuồng. Rượu, cà phê, thuốc lá, gái trai nhăng nhít. Rượu? Ngày nào cũng uống, một mình có thể nốc nửa lít rượu trắng Bà Điểm (nổi tiếng nặng đô, hơn cả Vodka của Nga). Các thứ khác của Tây, Tàu, Nhật như Hennessy VS Cognac, Johnnie Walker, Mai Quế lộ, Sakê… tôi thừa sức nốc hết ly này sang ly khác, càng uống càng hưng phấn! Còn bia? Khác chi nước lã, chỉ để giải khát, và để…. xúc miệng cho thơm râu! Cà phê? Ngày bốn cữ, sáng trưa chiều tối, chưa kể cà kê dê ngỗng với bạn bè ở các quán đèn mờ, nhạc nhiếc khuất chìm lướt thướt êm ru kiểu Hầm Gió, Mù U… và chỉ sính đen đậm, đắng như sái thuốc phiện. Thuốc lá? Ngày hai bao Bastos xanh. Mọi thứ khác như Ruby, Captan, Camel… nhẹ quá, rít bao nhiêu điếu mới đã? Thứ có đầu lọc, mùi bạc hà the the đỏm dáng càng chả ra chi, chỉ dành cho bọn công tử học đòi ăn chơi hoặc nhi nữ con nhà… rách! Hoặc nữa, các em cave trong vòng ôm mấy tên GI mắt xanh mũi lõ ở các Night Club xập xình nhạc Disco. Và gái? Tôi không đẹp giai, mắt một mí, răng cải mả vô trật tự, trán hói lơ thơ vài sợi tóc, ốm nhách, đi đứng hấp ta hấp tấp như bị ma rượt (theo mấy ngài thầy bói: số bần hàn cơ cực, không vác thuê gánh mướn cũng xích lô ba gác đổ mồ hôi sôi nước mắt chưa chắc rau mắm đủ no), lại xuất thân hạ lưu, cha mẹ lao động chân tay, quanh năm, dầm mưa dãi nắng nên da dẻ đen đúa sần sùi. Đương nhiên tôi `thừa hưởng tố chất di truyền, cũng đen nhẻm.
   
Tuy ngoại hình rất ư phản mỹ thuật là thế tôi vẫn được tiếng đắt đào. Người sính tử vi bảo tôi có sao đào hoa chiếu mệnh. Riêng tôi, hiểu, chả tướng với số gì, chỉ là tôi đủ khôn để biết, muốn đạt mục đích, điều kiện ắt có và đủ là nói năng tán tỉnh hoặc giả vờ lắp bắp đúng điệu nhát gái, hoặc mồm miệng bôi mỡ trơn tru, dẻo ngọt như kẹo mạch nha, cộng thêm ngón võ lì, dai hơn ghẻ rách! Ban đầu các nàng đỏng đảnh trề môi: không có cửa mô! Nhưng tôi vẫn kiên trì bám trụ tới hơi thở cuối cùng. Riết, các nàng động lòng trắc ẩn (phái nữ vốn nhẹ thể!) để rồi một ngày tay đây em hãy tựa đầu, cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi.
   
Vì đắt đào nên tôi hơi chảnh! Chỉ giăng câu thả lưới các nàng mày ngài mắt phượng, vóc dáng cao ráo, đầy đủ lễ bộ tựa các hoa hậu chân dài (nếu có thua cũng chỉ chút đỉnh không đáng kể). Nói chung, đó là những nhan sắc trên trung bình. Nàng nào ngoại hình thường thường bậc trung, tôi chê!
   

Năm mười tám tuổi tôi được cùng lúc hai nàng để mắt xanh. Một nàng đúng chỉ số tôi đề ra. Cuộc tình mặn nồng với đầy đủ cung bậc. Bỗng môt ngày nàng biến mất. Nửa tháng sau tôi mới hay nàng đã xuất giá tòng phu. Tôi đau, mất ăn mất ngủ nhiều tháng! Năm kế thi rớt tú tài, tôi vào lính. Sau bốn tháng quân trường tôi về đơn vị tác chiến với cái cánh gà bên vai. Thường, sau vài tháng hành quân đơn vị về hậu cứ nghỉ dưỡng. Thời gian này bọn lính lác chúng tôi mỗi sáng nếu không đi “rỏn” quanh vòng đai thành phố giữ an ninh cho thiên hạ an hưởng thái bình thì phải tạp dịch, lợp lại mái tôn, sơn quét doanh trại, rửa cầu tiêu, nhổ cỏ ngoài vận động trường… Một hôm tôi cùng tám thuộc hạ do tôi làm tiểu đội trưởng đang hì hục vét lại giao thông hào dọc lối đi dẫn ra cổng, chợt tai nghe tiếng thắng rít nhẹ cùng tiếng động cơ nổ êm. Ngẩng lên, và do phản xạ, tôi thẳng người, đưa cao tay chào đúng lễ nghi quân cách. Trên xe, băng sau, thiếu tá tiểu đoàn trưởng ngồi vắt chân chữ ngũ, ung dung, trên môi ngậm ống vố, mùi khói hap in hap thơm lừng:
   
“Làm tốt nhé, mai tôi cho nghỉ một ngày, mặc sức ăn nhậu.”
   
Bà vợ ngồi bên giục:
   
“Đi thôi, không khéo tới trễ, tiệc tùng toàn tai to mặt lớn, mình tới trễ coi hổng được.”
   
Mải lo chào kính tôi không để ý phu nhân sếp, đến khi nghe giọng quen, tôi giật mình nhìn kỹ. Nàng, người tình thứ nhất của tôi, son môi bóng nhẫy, áo sơ mi trắng, vét tông khoác ngoài, khăn lông quàng cổ, tóc vấn cao, đôi bông tai lấp lánh hai hạt kim cương. Nàng chồm người soi lại dung nhan trong kính chiếu hậu, không thèm nhìn bọn lính chúng tôi!
   
Ôi, nàng đó sao? Con họa mi có đôi cánh xanh mùa đông (trời lạnh, nàng thường mặc áo len xanh) từng thề non hẹn biển, từng trong vòng tay tôi, mắt long lanh ướt, nhõng nhẽo: “Anh ơi, yêu em mãi nhé, đừng một dạ hai lòng, em tự tử cho anh ân hận suốt đời.”
   
Gã tài xế cho xe vọt nhanh theo lệnh thượng cấp. Tôi sững người nhìn theo, lảo đảo muốn ngã. Tên lính đứng cạnh đưa tay đỡ:
   
“Trung sĩ răng rứa, mặt tái xanh, trúng gió à?”
   
Tôi cố trấn tĩnh:
   
“Không có chi, làm lẹ cho xong sớm, còn ra chợ sư đoàn mần vài xị.”
   
Tôi đau hơn bị hoạn, tư nhủ, tối nay phải say một trận nghiêng trời lệch đất cho quên mối hận tình!
     
Nàng thứ hai con nhà giàu, đi học bằng xe hơi có tài xế đưa đón, phải tội nàng có một dung nhan đáng thở dài, vóc dáng phì nhiêu, cao khiêm nhường, cười hở lợi phản cảm. Nàng yêu tôi rất mực. Tôi ỡm ờ, bởi lẽ so với nàng thứ nhất, chẳng khác ví gà với công, yêu nỗi gì! Thời ấy phong trào chạy patin nở rộ, khắp thành phố sân patin mọc lên như nấm. Nhà nàng cũng kinh doanh một sân patin hiện đại rộng thênh thang. Thông thường khách thuê giày có bánh xe của chủ để lướt, riêng tôi, nàng mua tặng một đôi patin bảnh chọe làm của riêng. Khổ nỗi tôi mê người tình thứ nhất, con chim họa mi có đôi cánh xanh mùa đông đỏm dáng, nên vội vả chạy đến nhà nàng với đôi patin cáu cạnh, trộ:
   
“Anh tặng em.”
   
“Cưng mua à?”
   
Tôi vênh mặt:
   
“Phải, đời anh cho được anh cũng cho, sá gì đôi patin.”
   
Nàng cảm động hôn tôi một cái rõ dài, môi mềm, thơm ngọt. Tôi ngất ngư, vượt qua ngay mặc cảm áy náy đã dùng quà của nàng thứ hai tặng lại người tình mặt hoa da phấn!
   
Ngày tôi vào lính, nàng thứ hai chăm chỉ viết năm ba chục lá thư than khóc tỉ tê, thề sẽ không yêu ai đến mãn kiếp. Tôi câm, vì chưa thể quện người tình thứ nhất. Về đơn vị một thời gian, tôi nghe tin nàng thứ hai lấy chồng theo lệnh song thân, nàng vốn dĩ con nhà lành, nào dám trái lòng phụ mẫu! Thế cũng xong.
   
Một hôm nghỉ phép tôi xuống phố, chạm mặt nàng trong quán kem, tay bế con chưa đầy tuổi, nàng lúng túng:
   
“Anh khỏe?”
   
“Khỏe, còn em?”
   
Nàng nhìn sâu vào mắt tôi, giọng trầm, rơm rớm:
   
“Khỏe, nhưng…”
   
Ngập ngừng vài giây, nàng hạ giọng:
   
“Em không quên được anh.”
   
*
 
Người xưa nói không sai: tốt gỗ hơn tốt nước sơn.
   
Cô bé người Phi dễ thương tựa thiên thần nhưng lụi kim vụng về, đau tắt thở, anh Mỹ đen mặt mày bặm trợn, nói năng cộc cằn, dáng thô kệch như con gấu, nhưng lụi kim chính xác, nhẹ nhàng, êm ru. Và một nàng nhan sắc chim sa cá lặn nhưng thay lòng đổi dạ khó lường, nàng kia dung nhan tựa tiếng thở dài nhưng thủy chung rất mực.
   
Sự đời lắm nỗi đa đoan, sai đúng khó phân!
 
– Khánh Trường
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
(Hollywood, 15 tháng 12) - Giới điện ảnh Hoa Kỳ và cả chính trường Washington đồng loạt phản ứng gay gắt sau khi Tổng thống Donald Trump đăng một lời bình bị xem là vô cảm và cay độc về cái chết của đạo diễn Rob Reiner và Vợ Michele Reiner. Trên mạng Truth Social, Tổng thống viết rằng Reiner “đã qua đời vì cơn giận dữ do chính ông ta gieo ra cho người khác,” rồi gán cho ông một thứ gọi là “hội chứng rối loạn ám ảnh Trump,” trong lúc bi kịch gia đình vẫn còn chưa ráo máu, theo tờ Daily Mail.
Một chiếc đồng hồ bỏ túi bằng vàng – từng nằm im dưới đáy Bắc Đại Tây Dương hơn một thế kỷ – vừa được đánh thức khỏi giấc ngủ dài bằng mức giá kỷ lục: 1,78 triệu bảng Anh. Chiếc đồng hồ ấy thuộc về Isidor Straus, người cùng sáng lập chuổi cửa hàng Macy’s, một thương gia 67 tuổi đã nằm lại cùng con tàu huyền thoại Titanic trong đêm định mệnh năm 1912. Chiếc đồng hồ – một mẫu Jules Jurgensen 18 carat khắc chữ, được tặng nhân sinh nhật lần thứ 43 của ông vào năm 1888 – nay trở thành hiện vật Titanic có giá cao nhất từng được bán. Kỷ lục cũ vốn thuộc về một chiếc đồng hồ vàng khác từng được trao cho thuyền trưởng con tàu cứu hơn 700 người, bán năm ngoái với giá 1,56 triệu bảng.
Thỉnh thoảng chúng tôi hay tới thăm ông niên trưởng Hải Quân của tôi. Ông đã gần 90 tuổi, mái tóc đã bạc trắng, bên khuôn mặt nhiều vết nhăn, đi đứng chậm chạp, nhưng ông vẫn minh mẫn, trí nhớ vẫn rành rẽ về những câu chuyện thời cuộc xa xưa, và hát vẫn rất hay. Lần thăm viếng vừa qua, ngồi nói chuyện với ông lâu hơn. Trong câu chuyện ông kể: “mình qua đây làm việc vất vả, mong ngày về hưu đưa vợ con đi du lịch cho biết đó biết đây, nhưng không thành, vì bà vợ bị tai biến mạch não khiến nửa người bị tê liệt phải ngồi xe lăn đã 25 năm qua, đi đâu cũng khó khăn”. Tôi bồi hồi xúc động, nhìn ông với tất cả sự cảm thông.
Cuộc sống này không có ai là hoàn hảo mà cũng không có cái gì là hoàn toàn, tất cả mọi sự vật trên đời này đều có khiếm khuyết và không vĩnh cửu. Chính vì thế nếu ai cố gắng đi tìm sự tuyệt đối, họ sẽ thất vọng. Câu thơ trên muốn nói lên ý tưởng, hãy chấp nhận và trân trọng những khiếm khuyết của nhau để chúng ta tới gần nhau hơn, hiểu nhau hơn. Nhà khoa học nổi tiếng Stephen Hawking còn đi xa hơn nữa, ông khẳng định „Nếu không có sự không hoàn hảo, cả bạn và tôi đều không tồn tại” ("Without imperfection, neither you nor I would exist."). Ông muốn nói sự „không hoàn hảo“ của vũ trụ, những giao động đột biến trong quá trình tiến hóa, những sai lệch trong định luật vật lý đã là những điều kiện để tạo nên sự sống trong đó có con người.
Suốt hơn nửa thế kỷ qua, Nghịch Lý Fermi (Fermi Paradox) luôn là một câu đố hóc búa ám ảnh giới thiên văn học. Nói một cách ngắn gọn, nghịch lý này đặt ra câu hỏi: Nếu vũ trụ đã gần 14 tỷ năm tuổi, một khoảng thời gian quá đủ để các nền văn minh tiên tiến, xã hội hiện đại, công nghệ cao phát triển và du hành giữa các vì sao, vậy thì tất cả họ đang ở đâu? Sao chưa có ai ghé qua Địa cầu để “chào một tiếng”?
Trong một bài viết đăng trên trang mạng Psychology Today, Tiến Sĩ Jeff Degraff kể lại một trải nghiệm khá thú vị của mình. Ông cho biết cách đây không lâu, ông bị mắc kẹt. Không phải là kẹt xe hay xếp hàng, mà là một khoảnh khắc mịt mờ về mặt tinh thần. Ông không thể suy nghĩ sâu sắc, không thể cảm nhận được những gì mình đang tiếp xúc. Rồi bất chợt một bài hát hiện lên trong đầu. Không phải bài hát mới nghe gần đây, và cũng không phải bài hát mà ông yêu thích. Nhưng lời bài hát thật sự chạm đến trái tim của ông. Chúng nói lên một điều gì đó mà ông không thể diễn đạt thành lời. Giống như não không muốn nói những lời đơn giản, nên đã quyết định cất tiếng hát.
Cựu Ước chép: “Thiên Chúa lấy đất sét nặn ra ông Adam theo hình ảnh của Ngài. Sau đó làm ông mê đi rồi rút một chiếc xương sườn ra tạo thành bà Eva, dẫn tới tặng cho ông Adam. Ông nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra”. Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau”. Đọc đoạn sách Sáng Thế Ký này, tôi bâng khuâng. Vậy là hai ông bà chưa trưởng thành, nhìn nhau như hai đứa trẻ ở truồng tắm mưa, chẳng động tĩnh chi. Thua xa ông Luân Hoán.
Sáng Chủ Nhật, ngày 19 tháng 10, giữa lúc khách tham quan vẫn đang tấp nập trong viện bảo tàng Louvre, một nhóm gồm bốn tên trộm bịt mặt đã thực hiện vụ trộm liều lĩnh hiếm thấy. Bốn kẻ bịt mặt đã đột nhập Bảo Tàng, dùng cần cẩu phá vỡ cửa sổ tầng trên của tòa nhà Galerie d’Apollon, khu trưng bày các bảo vật hoàng gia Pháp, cuỗm đi những món báu vật vô giá rồi tẩu thoát bằng xe gắn máy (motorbike).
Trong một đêm nhạc thính phòng trình bày nhạc Từ Công Phụng và Ngô Thụy Miên được tổ chức tại Vancouver, Canada, ít năm trước đây với sự có mặt của hai nhạc sĩ, tôi có tham dự. Phần đầu các ca sĩ hát nhạc của họ Từ, phần sau nhạc của họ Ngô, có nghỉ giải lao ở giữa. Trong giờ giải lao, tôi vào sau sân khấu để hàn huyên với ca sĩ Diễm Liên. Chúng tôi đang nói chuyện thì nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đi ngang qua, nói với Diễm Liên: “Nhớ hát đúng lời nhạc nhé!”. Diễm Liên le lưỡi, cười. Tôi giữ ý đi ra cho cô…ôn bài.
Ai cũng biết rằng học chơi nhạc cụ có thể mang lại nhiều lợi ích bên ngoài lĩnh vực âm nhạc. Nhiều nghiên cứu cho thấy chơi nhạc rất tốt cho não bộ, giúp cải thiện các động tác tinh tế, khả năng tiếp thu ngôn ngữ, đối thoại, trí nhớ, giúp não bộ chậm lão hóa. Sau nhiều năm làm việc với các nhạc sĩ, chứng kiến họ kiên trì luyện tập âm nhạc bất chấp cơn đau do thực hiện hàng ngàn động tác lặp đi lặp lại, một nhà nghiên cứu thần kinh học Đan Mạch đặt câu hỏi: nếu luyện tập âm nhạc có thể thay đổi não bộ theo nhiều cách như kể trên, liệu nó có thể thay đổi cách các nhạc sĩ cảm nhận cơn đau?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.